DO CHA LUIS G. DA CÂMARA, S.J.
NGHE THÁNH I-NHÃ KỂ
SAU ÐÓ ÐỌC CHO NGƯỜI KHÁC GHI CHÉP LẠI.
Hoàng Sóc Sơn
giới thiệu, dịch và chú thích
NỘI DUNG.
Lời mở
Dẫn nhập
Lời nói đầu của cha
Jeronimo Nadal
Lời nói đầu
của Cha Luis G. da Câmara
Ðược mời gọi phục vụ
Đức Kitô
Hướng đến giúp
đỡ các linh hồn
Ði học và tìm bạn
Nhận sứ mạng từ vị đại
diện Đức Kitô
Phụ lục
Tham khảo
LỜI MỞ
Những bước đường
theo
Chúa là tựa do chúng tôi đặt cho tập sách thường
được gọi là Hồi Ký (hay Tự Truyện, hay Tự Thuật)
của thánh I-nhã. Nội dung do
chính thánh I-nhã kể lại cho cha Luis Gonalves
da Câmara trong hai năm 1553 và 1555. Cha này
ghi chép những điều cốt yếu, sau đó đọc cho
thư ký chép lại.
Tập sách được hoàn thành vào
tháng 12 năm 1555 tại Genova, nước Ý.
Vào năm 1552, thánh I-nhã đã
61 tuổi, đã làm Bề Trên Cả tiên khởi Dòng Tên 11
năm, đang ở nhà Ðức Mẹ Trên Ðường, trụ sở Dòng
Tên lúc đầu, tại Rôma. Vì ngài hay ốm đau, người
ta sợ ngài không sống được bao lâu nữa.
Các môn đệ của ngài, đặc biệt là hai cha Juan de
Polanco và Jeronimo Nadal, nài nỉ ngài kể lại
Thiên Chúa đã dẫn dắt ngài từ khi ngài hoán cải
đến thời điểm ấy thế nào. Không phải là
tò mò, các cha ấy nghĩ rằng thấy được hoạt động
của Thiên Chúa trong tâm hồn thánh I-nhã thì
cũng hiểu được nguồn gốc và tinh thần đích thực
của Dòng Tên. Vì thế các cha
ấy ước mong thánh I-nhã kể lại để làm như một
bản di chúc thiêng liêng.
Ơn gọi của thánh I-nhã chẳng
phải là mô hình và mẫu gương sống động cho cả
Dòng sao?
Tuy nhiên,
khó khăn đến từ chính thánh I-nhã.
Một mặt ngài rất bận rộn vì vừa phải điều hành
Dòng, vừa phải soạn thảo Hiến Chương, lại còn
phải phụ trách một số hoạt động bác ái nữa.
Mặt khác, và có lẽ đây là lý do chính, ngài
không muốn nói về chính mình.
Nhưng ngày 4.8.1553, ngài đã
quyết định kể cho cha L.G. da Câmara.
Cha L. G.
da Câmara sinh tại Bồ Ðào Nha khoảng năm 1519,
là con viên Tổng Ðốc Madeira.
Năm 1535, cha đến Paris học ngôn ngữ và triết
lý.
Tại đó, cha gặp chân phước
Phêrô Favre và biết nhóm các bạn cùng chí hướng
với thánh I-nhã. Năm
1545, cha về Bồ Ðào Nha và gia nhập Dòng Tên.
Tháng 5 năm 1553, cha được
gọi về Rôma để báo cáo tình hình Dòng Tên tại Bồ
Ðào Nha. Xong nhiệm vụ, cha được thánh
I-nhã giữ lại làm quản lý nhà Ðức Mẹ Trên Ðường.
Cha là một người rất gần gũi với thánh I-nhã
trong đời sống hằng ngày, lại có trí nhớ rất tốt
và đặc biệt hết sức quan tâm đến những gì liên
hệ tới thánh I-nhã. Sáng hôm
4.8.1553, cha gặp thánh I-nhã trong vườn để nói
chuyện về đời sống thiêng liêng.
Khi cha nói về hư vinh,
thánh I-nhã chỉ cho cha cách thắng được loại cám
dỗ này. Ngài kể lại
việc ngài phải mất hai năm chiến đấu mới thắng
được. Thấy những điều mình kể giúp được
cho cha L. G. da Câmara, ngài nhận ra nếu kể lại
tiến trình ngài đã trải qua từ một kẻ ham danh
đến một người hành hương, chẳng những ngài có
thể giúp cha ấy mà giúp được nhiều người khác
nữa. Thế là ngài quyết định kể cho cha ấy những
bước đường theo Chúa
của ngài. Thật bất ngờ: điều cha Polanco và cha
Nadal nài nỉ mãi không được thì cha L. G. da
Câmara lại 'bất chiến tự nhiên thành'.
Thánh
I-nhã bắt đầu kể câu chuyện vào cuối tháng 8 năm
1553. Cha L. G. da Câmara chăm chú lắng
nghe, rồi ngay lập tức về phòng ghi chép lại
những điểm cốt yếu, sau đó đọc cho một
thư
ký chép lại từng chữ. Cha L. G. da Câmara cho
biết mình 'không viết một chữ nào ngoài những
điều đã nghe Cha
nói'. Cha Nadal cho biết cha
L. G. da Câmara 'có trí nhớ tuyệt vời'.
Tuy nhiên, giữa những điều cha L. G. da Câmara
viết ở Lời nói đầu và trong bản Hồi Ký, vẫn có
một vài chi tiết không khớp
Dầu sao, chúng ta có thể yên
tâm là chúng ta chắc chắn những gì được viết ra
diễn tả đúng như thánh I-nhã muốn.
Thánh I-nhã không kể liên tục từ đầu đến cuối,
nhưng vì nhiều lý do khác nhau, ngài chia làm ba
đợt:
Ðợt 1, trong tháng 8 và tháng 9 năm 1553: từ đầu
đến giai đoạn Manresa.
Ðợt 2, từ 9 đến 23 tháng 3 năm 1555: từ giai
đoạn Manresa đến chuyện thánh I-nhã đi Rouen.
Ðợt 3, từ 22 tháng 9 đến 20 hay 22 tháng 10 năm
1555: từ chuyện thánh I-nhã đi Rouen đến hết.
Sau hai đợt đầu, cha L. G. da
Câmara đọc cho
thư ký chép lại bằng
tiếng Tây Ban Nha tại Rôma. Sau đợt ba, cha đọc
cho thư ký chép lại
bằng tiếng Ý, vì không có thư ký biết tiếng Tây
Ban Nha, tại Genova. Sau đó, cha ấy viết Lời
nói đầu, có lẽ trước khi thánh I-nhã qua đời
(31.7.1556), vì không thấy nhắc gì đến việc ngài
qua đời. Ngoài ra, cha ấy
còn viết thêm 13 ghi chú ngoài lề nữa.
Bản gốc đã
thất lạc.
Chúng ta còn giữ được một
vài bản sao được chép lại từ khá sớm, thí dụ bản
cha Nadal dùng vào năm 1557, khi đi kinh lý
nhiều cộng đoàn Dòng Tên. Cha Nadal, có
lẽ không biết là trước đó cha L. G. da Câmara đã
viết Lời nói đầu rồi, nên viết Lời nói
đầu khác, trong khoảng 1561-1576. Trong
khoảng 1558-1561, cha Annibal du Coudret, Dòng
Tên, người Pháp, dịch bản Hồi Ký sang
tiếng Latinh.
Một điều đáng tiếc là 10 năm
sau khi thánh I-nhã qua đời, thánh Phanxicô
Borja, trong cương vị Bề Trên Cả Dòng Tên, đã ra
lệnh cho cha Pedro Ribadeneira
viết bản tiểu sử đầu tiên về thánh I-nhã, nhưng
cũng ra lệnh gạch bỏ những trích dẫn bản Hồi Ký,
vì cho rằng bản tường thuật của thánh I-nhã
không đầy đủ và chắp nối. Thế là di chúc và
giáo huấn của vị sáng lập bị Dòng Tên hầu
như quên mất! Năm 1731 nhóm
Bollandistes ấn hành và phát hành bản dịch
Latinh (trong Acta Sanctorum, vol. VII Julii),
và đánh số lề từ 1 đến 101 như hiện chúng ta
thấy. Phải chờ thêm
hơn 170 năm nữa, bản Tây Ban Nha -Ý mới được
xuất bản lần đầu năm 1904 (Monumenta Ignatiana
Scripta de Sancto Ignacio de Loyola 1, Madrid).
Ðây là ấn bản phê bình đầu
tiên. Một ấn bản phê bình khác, cùng với
bản dịch Latinh, được ấn hành năm 1943 trong bộ
Fontes Narrativi de S. Ignatio de Loyola 1:
Narrationes scriptae ante annum 1587 (Roma:
MHSI 1943). Từ đây, bản Hồi Ký ngày càng được
đọc và nghiên cứu chu
đáo hơn. Ngày nay, tập Hồi Ký được coi
như viên ngọc trong di sản của thánh
I-nhã, là nền móng cho mọi nghiên cứu và
học hỏi về thánh I-nhã.
Bản Hồi Ký
do
cha L. G. da Câmara hoàn thành không có tựa và
không phân chương. Cha Nadal
đặt tựa là Acta P. Ignatii ut primum scripsit
P. Ludovicus Gonzalves excipiens ex ore ipsius
Patris. Xin phép dịch là
Hạnh cha I-nhã theo
như thoạt tiên cha L. G. da Câmara đã được nghe
chính ngài kể, sau đó viết lại. Các bản dịch
sang tiếng Anh và tiếng Pháp khá tự do trong
việc đặt tựa và phân chương. Thí dụ cha A. Thiry
gọi là Récit du Pèlerin, Autobiographie de
Saint Ignace de Loyola và chia thành 7
chương, thêm phần Tâm sự ở cuối; cha J.N.
Tylenda gọi là A Pilgrim's journey, the
Autobiography of Saint Ignatius và chia
thành 11 chương.
Bản dịch tiếng Việt đầu tiên
do cha Hoàng Văn Lục, S.J., thực hiện năm 1975
với tựa là Trên đường tìm Chúa và chia
thành 10 chương cùng với phần cuối được gọi là
Bản đúc kết.
Tại sao cần một bản dịch
mới? Bản dịch cũ đã
được thực hiện cách nay trên 25 năm.
Trong thời gian này, có
nhiều nghiên cứu về bản Hồi Ký đã giúp
chúng ta có thể hiểu sâu rộng hơn sứ điệp của
thánh I-nhã. Vả lại,
bản dịch cũ rất ít chú thích, làm cho người đọc
khó lĩnh hội hết được bản văn.
Với bản dịch này, chúng tôi
sẽ cố gắng sử dụng những nghiên cứu gần đây để
dịch và chú thích, hi vọng sẽ giúp được người
đọc hơn.
Tại sao đặt tựa là Những
bước đường
theo Chúa? Bản
Ðịnh Thức Thể Chế Dòng Tên do thánh I-nhã và các
bạn cùng chí hướng soạn thảo, rồi được Tòa Thánh
phê chuẩn, gọi Dòng Tên là một con đường dẫn
đến với Thiên Chúa.
Thánh I-nhã là tổ phụ Dòng Tên đã được Thiên
Chúa dẫn qua các chặng đường mà các Giêsu hữu
được mời gọi đi lại hành trình ấy.
Ðó là ý của thánh I-nhã khi
thuật lại Chúa đã dẫn dắt ngài thế nào. Ý
của cha Nadal khi xin và ý của thánh I-nhã khi
kể đều coi đây là di chúc và giáo huấn
của vị sáng lập Dòng Tên, nhằm giúp anh em trong
Dòng đi đến nguồn gốc và nền tảng của
Dòng. Chính trong cái nhìn đó, chúng ta mới hiểu
được những bước đường theo Chúa của thánh
I-nhã cũng phải là những bước đường theo Chúa
của từng Giêsu hữu cũng như của toàn
thể Dòng Tên: (1) quyết tâm phục vụ Ðức Kitô;
(2) phục vụ Ðức Kitô bằng cách giúp đỡ các linh
hồn; (3) không sống và làm việc đơn độc nhưng
trong một nhóm bạn mà mà Chúa Giêsu là đầu; (4)
nhận sứ mạng từ Ðức Thánh Cha trong cương vị
người thay thế Ðức Kitô ở trần gian.
Thánh
I-nhã là một trong những người gây tranh cãi
hạng nhất trong lịch sử Hội Thánh cũng như lịch
sử thế giới.
Người ta có cái nhìn rất
khác nhau về ngài, thậm chí đôi khi hoàn toàn
trái ngược nhau. Rất nhiều người chỉ nói
về ngài theo thành
kiến hay suy đoán, hoặc theo người này người kia
nói. Ðọc bản Hồi Ký, chúng ta mới biết
đời sống nội tâm phong phú và thâm sâu của ngài,
để thấy đa số các ý kiến về ngài, ngay cả nơi
những tác giả khá nổi tiếng, đôi khi chỉ mới
dừng lại ở phần vỏ chứ chưa đi vào phần ruột của
ngài. Riêng tại Việt Nam,
người ta còn hiểu rất ít về thánh I-nhã.
Ngay cả những sách viết về ngài, vốn rất hiếm,
lại khá sơ sài, mà nhiều khi chỉ là những suy
đoán! Ðã đến lúc chúng ta để
cho ngài trực tiếp nói với người Việt Nam nói
chung, và với người Công Giáo Việt Nam nói
riêng. Bản Hồi Ký
chính là cơ hội để chúng ta được nghe đích
thân ngài nói, chứ không chỉ nghe người ta nói
về ngài.
Ước mong bản dịch cùng với
giới thiệu và chú thích của chúng tôi giúp người
đọc hiểu được chính xác và sâu xa hơn một chút
về một vị thánh có vai trò khá quan trọng trong
lịch sử đời tu, lịch sử Hội Thánh, và lịch sử
thế giới.
Hiển Linh 1.1.2002
HOÀNG SÓC SƠN
Trở về Nội Dung
DẪN NHẬP
Hành Trình Thiêng Liêng
Của Thánh I-nhã
Những bước đường theo
Chúa khởi đầu với sự kiện Pamplona năm
1521 và kết thúc với năm 1538, sau khi thánh
I-nhã đến ở hẳn tại Rôma. Ðó
là 17 năm quan trọng đặc biệt trong cuộc đời
thánh I-nhã (1491-1556), 17 năm người ta thường
gọi là
giai đoạn hành hương.
Tuy nhiên, đó chưa phải là
toàn bộ đời sống ngài.
Chúng tôi sẽ trình bày sơ
lược 30 năm đầu (1491-1521) và 18 năm cuối
(1538-1556), nhờ đó chúng ta có thể dễ hiểu 17
năm giữa hơn. Chúng ta cũng biết rằng
Những bước đường theo
Chúa không phải là bản tự thuật đầy đủ và
theo nghĩa thông thường của thánh I-nhã:
1)
Ngài không chỉ thuật lại như một nhà báo, mà
ngài nhìn lại cả đời sống dưới ánh sáng đã nhận
được trong suốt cuộc đời, đặc biệt là kinh
nghiệm thần bí.
2)
Hình như ngài chỉ kể những gì các bạn đầu tiên
của ngài chưa biết: vì thế đôi khi ngài kể sơ
sài về một sự kiện rất quan trọng, thí dụ thị
kiến La Storta, nhưng đôi khi lại kể khá chi li
về những sự kiện không thật cần thiết, thí dụ
trong chuyến hành hương Giêrusalem;
3) Hình như ngài kết thúc
đột ngột vì cha L. G. da Câmara phải đi Tây Ban
Nha.
Ngoài ra,
lúc ấy, thánh I-nhã đã tương đối lớn tuổi, và
rất bận rộn, nên có thể bỏ qua một số chi tiết.
Thứ đến, ngài cũng không quan tâm đặt những điều
ngài kể trong bối cảnh lịch sử thế giới và Hội
Thánh đang chuyển biến, mà chỉ thuật lại những
điều ngài xét là sẽ giúp ích cho con cái thiêng
liêng của ngài thôi.
Chúng ta sẽ cố gắng bổ sung
những điều ấy trong bài dẫn nhập này.
BA MƯƠI NĂM ÐẦU
1491-1521
Thánh
I-nhã tên thật là Inigo López de Loyola.
Ngài sinh năm 1491
tại lâu đài Loyola, thuộc giáo xứ Azpeitia,
trong tỉnh Guipuzcoa, miền bắc Tây Ban Nha.
Gia đình ngài thuộc dân tộc
thiểu số Basco. Tiếng
mẹ đẻ của ngài là tiếng Basco (khác với tiếng
Tây Ban Nha). Ngài là con trai út trong
gia đình: trên ngài có 10 anh chị; ngoài ra cha
ngài còn có ít là hai người con ngoại hôn nữa.
Gia đình
ngài thuộc hàng quí tộc ở Tây Ban Nha, đã lập
được nhiều công trạng với triều đình và luôn
luôn trung thành với triều đình. Cha ngài
làm chủ lâu đài Loyola, có quyền
thu
tô của nông dân trong vùng, có quyền chỉ định
cha sở nhà thờ xứ Azpeitia.
Về đời sống tôn giáo, gia đình ngài luôn luôn
gắn bó với Hội Thánh Công Giáo.
Tuy nhiên, về đời sống luân
lý, gia đình ngài không phải lúc nào cũng đáng
nêu gương. Thí dụ cha
ngài có mấy người con rơi; anh ngài, linh mục
Pero, cha sở Azpeitia, khi qua đời cũng để lại
mấy người con rơi.
Tên rửa
tội của ngài là
Inigo (người Tây Ban Nha thường thêm dấu
ngã trên chữ n để đọc là I-nhi-gô),
được Latinh hóa là Enneco.
Trong tiếng Basco hiện thời,
thay vì Inigo, người ta viết là Eneko.
Ðây là tên vị viện phụ
đan viện Biển Ðức Ona ở Burgos, qua đời năm
1057, và dân chúng trong vùng tôn kính như một
vị thánh. Ignatius
(Inhaxiô hay I-nhã) lần đầu tiên xuất hiện
trong văn bằng tốt nghiệp đại học Paris của ngài
năm 1535, hình như đơn giản vì các nhân viên đại
học tưởng Inigo trong tiếng Basco chính là
Ignatius trong tiếng Latinh.
Về sau, ngài có lòng sùng
kính đặc biệt thánh giám mục Inhaxiô thành
Antiôkhia.
Có lẽ ngài
mồ côi mẹ từ nhỏ.
Chúng ta không thấy thánh
I-nhã nhắc đến mẹ của ngài lần nào.
Ngài được gia đình giao cho
bà Maria de Garín gần nhà nuôi dưỡng.
Bà vú nuôi này là vợ một
người thợ rèn, tức là thuộc giới bình dân.
Bà đã dạy ngài nói, đọc
kinh, và cả lòng đạo của người bình dân xứ
Basco. Sau khi ngài qua đời, bà xác định
năm sinh của ngài là 1491 chứ không phải 1493
như lúc ấy có nhiều người nghĩ.
Chúng ta không biết chính
xác ngài ở với bà vú nuôi trong thời gian nào.
Anh cả của ngài là Juan Perez chết năm
1496 trong một chiến dịch của Tây Ban Nha ở
Napoli, nước Ý. Anh thứ hai là Martín García
hưởng quyền thừa kế. Anh này
cưới chị Magdalena de Araoz năm 1498.
Có lẽ trong khoảng thời gian
này, thánh I-nhã trở về lâu đài của gia đình, vì
có chị dâu chăm sóc, và để học hành.
Trình độ học vấn của ngài
vào lúc hoán cải là biết đọc biết viết.
Có lẽ gia đình thuê thầy đến
dạy ngài tại nhà, như các gia đình quí tộc đương
thời thường làm. So
với mặt bằng dân trí thời nay thì trình độ học
vấn của ngài thấp, nhưng so với người đương thời
thì kể là đủ.
Có lẽ cha ngài muốn sau này
ngài làm linh mục để hưởng bổng lộc nhà thờ xứ
Azpeitia, nên hình như đã cho ngài 'chịu chức
cắt
tóc'
.
Tuy nhiên, có lẽ ngài muốn tiến thân trên đường
công danh hơn, nên năm 15 tuổi, được cha gởi đến
tập sự tại dinh quan Thống Ðốc Ngân Khố Hoàng
Gia Juan Velásquez de Cuéllar ở Arévalo, cách
Loyola chừng 600 km. Cùng với các con trai của
viên thống đốc, ngài được huấn luyện làm quan
chức triều đình sau này: cỡi ngựa, đấu kiếm,
giao tiếp, ca hát, khiêu vũ...
Cũng tại Arevalo, ngài làm
quen với những cuốn tiểu thuyết kiếm hiệp rất
thịnh hành thời đó.
Viên thống đốc thường phải đi đây đó để giải
quyết công việc, nhiều khi thánh I-nhã cũng tháp
tùng.
Một sự
kiện đáng kể trong giai đoạn này xảy ra trong
dịp lễ Hóa Trang
(thứ ba trước Lễ Tro) ngày 2.2.1515.
Thánh I-nhã bị tố cáo là 'kẻ chủ mưu'
trong một vụ 'rất nghiêm trọng' xảy ra
vào 'ban đêm, có sắp đặt trước', được
thực hiện bằng một cuộc 'phục kích'.
Cho đến nay, người ta vẫn
không biết điều gì đã thực sự diễn ra.
Sau đây là điều người ta
phỏng đoán. Cụ thân
sinh thánh I-nhã đã qua đời năm 1507.
Gia đình Loyola 'bảo trợ'
giáo xứ Azpeitia, nghĩa là có quyền chỉ định cha
xứ. Từ lâu, cha xứ
Azpeitia trên danh nghĩa (được hưởng giáo bổng)
là cha Juan de Anchieta.
Cha này sống ở triều đình,
coi sóc nhà nguyện của hoàng gia, giao việc của
giáo xứ cho các cha phụ tá. Năm 1515, cha
này tính về hưu, nên chỉ định người cháu là cha
García López de Anchieta kế nhiệm, trong
khi gia đình Loyola muốn anh của thánh I-nhã là
linh mục Pero López làm cha sở để hưởng
giáo bổng. Lợi dụng đêm lễ Hóa Trang, thánh
I-nhã cùng với người anh linh mục tổ chức một
'tiết mục' nào đó chống lại các giáo sĩ ở
Azpeitia. Sự việc được kể là
nghiêm trọng, nên hai anh em thánh I-nhã bị truy
tố ra tòa. Hai anh em nại đến luật: cả
hai là giáo sĩ, nên không thể bị truy tố ra tòa
án dân sự. Người anh
là linh mục nên cứ luật thì chỉ bị xét xử ở tòa
án đạo. Riêng thánh
I-nhã, người ta không thấy tên trong danh sách
những người chịu chức cắt tóc trong sổ
sách của giáo phận Pamplona
. Vả lại, ai
cũng thấy ngài không hề cắt tóc theo kiểu hàng
giáo sĩ thời đó (chỉ để tóc lại thành như một
vòng tròn trên đầu) và cũng không hề thấy ngài
mặc áo giáo sĩ (áo chùng thâm); trái lại ngài để
tóc dài tới vai, đội mũ có gắn lông chim, mặc
quần áo màu sáng, mang giày chật, mang kiếm và
dao găm, đôi khi còn mặc áo giáp nữa, đúng như
các hiệp sĩ đương thời.
Nhưng rồi mọi chuyện cũng
được bỏ qua, vì gia đình ngài rất thế lực và
'nén bạc đâm toạc tờ giấy!
Ðầu năm 1516, vua Fernando
của Tây Ban Nha qua đời, lẽ ra công chúa Juana
thừa kế ngai vàng cả hai vương quốc Castilla và
Aragon tồn tại song song ở Tây Ban Nha từ gần
300 năm, nhưng vì bà bị coi là điên, nên con bà
là Carlos (cháu ngoại vua Fernando và nữ hoàng
Isabel, thường được gọi là Các Quân Vương Công
Giáo, đồng thời là cháu nội hoàng đế Maximilian
nước Ðức; từ năm 1519 lên nối ngôi ông nội làm
hoàng đế Ðức, trong khi vẫn giữ ngôi vua Tây Ban
Nha) lên nối ngôi, và chính thức thống nhất Tây
Ban Nha. Nhà vua ra lệnh cho
Arévalo và các thành phố khác thuộc quyền của
thống đốc Velasquez trợ cấp cho thái hậu
Germaine (vợ sau của vua Fernando).
Viên thống đốc cùng với dân
chúng trong vùng, nhất là những khu vực được
miễn thuế, không chấp nhận, và mưu toan kháng cự
bằng võ lực. Thống
đốc Velasquez bị cách chức năm 1516 và qua đời
năm 1517.
Thánh
I-nhã đến giúp việc cho công tước Antonio
Manrique de Lara, xứ Nájera, kiêm phó vương
xứ Navarra. Hai sự kiện nhỏ xảy ra trong
thời gian này nói lên phần nào con người của
thánh I-nhã.
Năm 1520, dân chúng Nájera
nổi loạn chống lại công tước.
Thánh I-nhã đã cùng với đoàn
quân vào dẹp loạn. Dân trong thành bị
đoàn quân của công tước cướp đoạt tài sản, nhưng
thánh I-nhã không hề đụng đến cây
kim sợi chỉ của dân.
Ðầu năm 1521, dân hai thành phố San Sebastian và
Hernani trong tỉnh Guipuzcoa nổi loạn, thánh
I-nhã được công tước phái đến để dàn xếp hòa
bình, và ngài đã thành công.
Chính từ bối cảnh ấy, thánh
I-nhã tham dự vào trận đánh tại Pamplona mà ngài
dùng để khởi đầu
Những bước đường theo
Chúa.
MƯỜI BẢY NĂM
HÀNH HƯƠNG 1521-1538
Khi chọn ai để thi hành một sứ
mạng đặc biệt, thường Thiên Chúa chuẩn bị rất
kỹ, nhưng không cho đương sự biết hết ngay từ
đầu, mà dùng các biến cố để dần dần cho người ấy
biết ý định của Chúa và chuẩn bị người ấy đón
nhận và thi hành sứ mạng.
Khoa sư phạm của Chúa là 'từng bước một thôi'
như Ðức Hồng Y John Newman diễn tả.
1.
Phục vụ Ðức Kitô (cuối
tháng 5.1521 đến cuối tháng 2.1522).
Cho đến
khi bị thương ở Pamplona năm 1521, thánh I-nhã
là một người mải mê sự đời.
Ngài thừa hưởng đức tin của gia đình, nhưng đức
tin của ngài phần nào như nén bạc được chôn giấu
kỹ.
Phục vụ thống đốc Velasquez
rồi phục vụ công tước Manrique, ngài nhắm trước
hết là công danh. Ðối với ngài, Pamplona
có thể là một cơ may để ngài tiến thân. Nhưng
Chúa đã biến Pamplona thành khúc quanh quyết
định của đời ngài: từ chỗ làm hiệp sĩ phục vụ
triều đình Tây Ban Nha, ngài trở thành hiệp sĩ
phục vụ Ðức Kitô.
Vua Franois I của Pháp và vua
Carlos I của Tây Ban Nha (đồng thời là hoàng đế
Karl V [thường được gọi là Charles Quint] của
"Ðế
quốc Rôma thánh của dân tộc Ðức"), là
hai kẻ thù không đội trời
chung. Một trong những điểm tranh chấp là
vương quốc Navarra nhỏ bé,
quê hương thánh Phanxicô Xavier.
Năm 1512, Tây Ban Nha xua
quân chiếm đóng Navarra, một vương quốc độc lập
từ lâu. Năm 1515, Tây Ban Nha sáp nhập
Navarra và đặt phó vương cai
trị. Năm 1521, Pháp đem quân
vào Navarra, bao vây thủ phủ Pamplona.
Cả phó vương cũng như viên
tướng chỉ huy quân đội Tây Ban Nha tại Pamplona
đều bỏ chạy. Chỉ còn
lại thánh I-nhã và một số hiệp sĩ cố thủ trong
pháo đài. Thứ hai sau
lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, ngày 20.5.1521,
quân Pháp tấn công pháo đài.
Thánh I-nhã bị thương nặng ở
chân. Ngày 24, pháo đài đầu hàng.
Thánh I-nhã được quân Pháp
đưa về dưỡng bệnh tại lâu đài Loyola của gia
đình.
Ngài được
người chị dâu Magdalena tận tình chăm sóc.
Các bác sĩ được mời đến để
chữa trị. Có lúc bác
sĩ tưởng ngài không qua được.
Tuy nhiên, mọi sự cuối cùng
cũng tốt đẹp, nhưng ngài phải nằm liệt giường
một thời gian, và sau này suốt đời đi cà nhắc.
Trong lúc chữa trị, ngài vẫn
mơ tưởng đến công danh. Ngài xin chị
Magdalena tìm cho tiểu thuyết kiếm hiệp để đọc,
nhưng người phụ nữ đạo đức này chỉ có hai cuốn
sách đạo là Hạnh các thánh và
Cuộc đời Ðức Kitô, nên ngài đành phải
đọc để giết thời giờ. Hai hình ảnh thay phiên
nhau chiếm đoạt tâm trí ngài: một bên là hình
ảnh các hiệp sĩ tìm công danh và làm đẹp lòng
một phụ nữ quí phái, bên kia
là hình ảnh các thánh, sống nghèo khó và khiêm
tốn, làm môn đệ Ðức Kitô.
Hình ảnh trước đem đến cho ngài niềm vui hời hợt
và mau qua, sau đó là trống rỗng, vô nghĩa.
Trái lại, hình ảnh sau làm
cho ngài hưởng niềm vui sâu xa và lâu dài.
Gương các thánh thúc đẩy ngài: "Thánh
Phanxicô đã làm như thế, tôi cũng phải làm như
thế; thánh Ðaminh đã làm như vậy, tôi cũng phải
làm như vậy." Thế là
ngài quyết định thay vì tiếp tục làm hiệp sĩ
phục vụ triều đình Tây Ban Nha thì noi gương các
thánh đi phục vụ Ðức Kitô. Ngài đã
'được Ðức Kitô chiếm đoạt" (Pl 3,12).
Ngài phác họa tương lai: đi
chân không, chỉ ăn bánh mì và rau cỏ, chỉ uống
nước lã, đi hành hương Giêrusalem để đền tội,
sau đó có thể vào một dòng khổ tu, hay sẽ không
vào dòng để được tự do sống khổ hạnh.
Một ngày cuối tháng 12 năm 1522, sau khi bình
phục, ngài cỡi la rời bỏ lâu đài Loyola lên
đường mà không cho gia đình biết sẽ đi đâu.
Giã từ dĩ vãng.
2.
Giúp đỡ các linh hồn (cuối
tháng 2.1522 đến tháng 9.1523)
Ðây là
giai đoạn Thiên Chúa cho ngài thấy rõ ngài được
gọi làm tông đồ.
Trước
hết, ngài đến đan viện dòng Biển Ðức tại
Montserrat để dứt bỏ quá khứ.
Sau ba ngày xét mình và xưng tội chung cả đời,
ngài tặng một người hành khất trang phục hiệp
sĩ, rồi mặc trang phục của khách hành hương,
canh thức suốt đêm trước tượng Ðức Mẹ, theo thói
quen trong nghi thức tấn phong hiệp sĩ, dâng
kiếm và dao găm cho Ðức Mẹ, rồi biếu đan viện
con la: ngài trở thành một người hành hương
đi bộ hoàn toàn vô danh.
Có lẽ
theo lời khuyên của cha giải tội ở
Montserrat, ngài đến Manresa nghỉ ngơi và tĩnh
tâm để chuẩn bị đi Giêrusalem.
Ngài đã ở lại đó hơn 10
tháng.
Trong bốn tháng đầu, ngài
thực hiện ý định đã mơ ước: mỗi ngày quỳ gối cầu
nguyện riêng 7 giờ, dự lễ, dự giờ kinh phụng vụ,
hành khất, ăn uống kham khổ, để râu tóc và móng
chân móng tay mọc bừa bãi.
Ngài thực sự thi đua với các thánh ẩn tu và muốn
hơn cả các thánh nữa.
Ngài thấy rất vui với cuộc đời mới.
Nhưng rồi
đến giai đoạn khó khăn.
Ngài bối rối vì tội lỗi trong quá khứ, lo
lắng về tương lai.
Những giờ cầu nguyện của ngài trở nên khô khan.
Ngài chán ngán đến nỗi tính
cả tới chuyện tự tử.
Ngài tìm hết cha linh hướng
này đến cha linh hướng khác mà tình trạng vẫn
ngày càng khó khăn hơn.
Ngài không biết rằng Thiên
Chúa đang dùng đêm tối thiêng liêng để
thanh luyện linh hồn ngài, điều khá bình
thường nơi những người sắp có bước tiến quyết
định. Ngài chỉ còn biết kêu xin Chúa:
dù phải theo một con
chó nhỏ, ngài cũng sẵn lòng.
Cuối cùng là giai đoạn soi
sáng và an ủi mãnh
liệt. Thiên Chúa dạy dỗ ngài như thầy giáo
dạy một em bé. Những chân lý đức tin trở nên
sáng tỏ: Thiên Chúa Ba Ngôi, Sáng Tạo, Cứu
Chuộc, Thánh Thể, Hội
Thánh... Ðỉnh cao là ơn soi sáng ở
Cardoner. Ðây là một ơn ngoại thường thâu
tóm tất cả các ơn khác đã nhận, đồng thời soi
sáng ý nghĩa tất cả các ơn khác đã nhận.
Thánh I-nhã được đưa vào các
mầu nhiệm thần linh, đồng thời được mời gọi cộng
tác với Ðức Kitô để thực hiện chương trình cứu
độ của Thiên Chúa. Ơn soi sáng ở Cardoner
xác định dứt khoát cái nhìn siêu nhiên
của thánh I-nhã về thế giới và lịch sử, đồng
thời biến ngài từ chỗ ước ao sống khổ hạnh đến
chỗ xả thân 'giúp đỡ các linh hồn'.
Với ơn soi sáng ở Cardoner,
thánh I-nhã thấy mình trở nên một con người
mới.
Bên trong, ngài không ước
muốn sống như các vị ẩn tu khổ hạnh nữa, nhưng
muốn giúp đỡ người ta, đặc biệt về đời sống
thiêng liêng như học giáo lý, tập cầu nguyện.
Muốn vậy, ngài phải thay đổi cách sống bên
ngoài: ăn uống, quần
áo... mặc dầu giản dị, nhưng phải tử tế hơn.
Ngài cũng hớt tóc, cạo râu, cắt móng chân móng
tay.
để người ta chấp nhận
cho mình đến giúp đỡ họ. Từ
nay, ơn gọi tông đồ chi phối toàn bộ cuộc
sống và việc làm của ngài.
Những kinh nghiệm thiêng
liêng tại Manresa sẽ được thánh I-nhã đúc
kết thành tập Linh Thao, sau này ngài
dùng để giúp đỡ các linh hồn và qui tụ các bạn
cùng chí hướng.
Giữa tháng 2 năm 1523, thánh
I-nhã đi hành hương Giêrusalem, nhưng
thay vì đi để làm việc đền tội như một người sám
hối, thì đi như một người tông đồ.
Ngài ước ao rèn luyện đức tin, đức cậy và đức
mến, tức là đời sống siêu nhiên. Ngài
muốn được sống gần gũi,
thân thiết với Ðức Kitô hơn, muốn đặt chân mình
trên vết chân của Chúa tại Ðất Thánh. Ngoài ra,
ngài ước ao ở lại để truyền giáo cho người Hồi
Giáo lúc ấy cai trị
Ðất Thánh.
Ðói khát, rét mướt, cực khổ,
chê cười, nguy hiểm... ngài trải qua tất cả với
lòng tin tưởng tuyệt đối nơi Thiên Chúa.
3-
Ðể phục vụ Ðức Kitô bằng cách giúp đỡ các linh
hồn hơn : đi học và
tìm bạn
(1523-1537)
Thánh I-nhã muốn ở lại
Giêrusalem để vừa được sống gần gũi với Chúa
Giêsu, vừa làm việc tông đồ với người Hồi Giáo,
nhưng giáo quyền sở tại không cho phép. Trên
đường về lại Tây Ban Nha, ngài tự hỏi: "Phải
làm gì?"
Không biết
phải làm gì, thánh I-nhã để cho Chúa Thánh Thần
dẫn dắt từng bước. Về
đến Barcelona, ngài gặp lại những người bạn đã
quen hơn một tháng trước.
Dự tính học hành thêm để có
thể làm việc tông đồ tốt hơn của ngài được họ
ủng hộ. Sống nghèo, dành nhiều thời giờ
để cầu nguyện, và học thêm: thật không phải là
điều dễ dàng. Ðôi khi ngài
phải hy sinh giờ cầu nguyện và việc tông đồ để
việc học hành đạt kết quả.
Sau hai năm cố gắng, ngài
nghe lời khuyên của thầy giáo và các bạn đến
Alcalá học triết lý.
Alcalá cho ngài thấy rõ hơn:
muốn giúp đỡ các linh hồn, phải tìm những người
cùng chí hướng để hoạt động tông đồ được mở rộng
hơn và hữu hiệu hơn. Lúc ở
Barcelona, đã có ba thanh niên muốn bắt chước
cách sống của ngài. Tại Alcalá, có thêm
người thứ tư. Tuy
nhiên, chẳng bao lâu sau, nhóm của ngài đã làm
cho giáo quyền phải bận tâm: ngài và các bạn bị
cấm dạy giáo lý và mặc đồng phục.
Không được phép giúp đỡ các
linh hồn ở Alcalá nữa, ngài và các bạn đến
Salamanca. Chẳng bao lâu sau, chưa kịp
học hành gì, ngài bị Tòa Án Giáo Lý ở Salamanca
bắt giam rồi cấm giải thích cho người khác khi
nào là tội trọng, khi nào là tội nhẹ, nếu chưa
học xong bốn năm thần học.
Kiên quyết phải học để có thể giúp đỡ các linh
hồn hơn, năm 1528, ngài đi Paris để chuyên tâm
học hành.
Nhận thấy
vốn kiến thức của ngài vừa sơ sài, vừa mất căn
bản, ngài quyết định bắt đầu việc học lại từ
đầu. Ngài hy sinh
việc tông đồ, bớt giờ cầu nguyện, chấp nhận bỏ
đời sống hành khất đã quen từ nhiều năm, để có
thể học hành đến nơi đến chốn.
Nhóm bạn cùng chí hướng ở
Tây Ban Nha bỏ ngài, mỗi người đi một ngả.
Ngài tập họp nhóm mới gồm ba
người, nhưng bị cộng đồng phản ứng mạnh, nên
nhóm mau chóng tan rã. Qua hai lần thất
bại về nhóm bạn, ngài thấy phải tiến hành
chu đáo hơn.
Năm 1529,
vì ở nhà trọ gặp khó khăn cho việc học, nên ngài
xin vào nội trú tại học viện Sainte-Barbe.
Ngài ở chung phòng
với hai thanh niên khác là Phêrô Favre và
Phanxicô Xavier. Ngài đã
quyết định không làm việc tông đồ, cũng không đi
tìm bạn cùng chí hướng, để chuyên tâm học tập.
Nhưng chẳng bao lâu sau, lần
lượt Phêrô Favre rồi Phanxicô Xavier muốn chia
sẻ hướng tông đồ với ngài.
Sau đó đến bốn sinh viên
khác nữa. Linh Thao
giúp các bạn vừa gắn bó với Chúa Giêsu, vừa gắn
bó với thánh I-nhã, vừa gắn bó với nhau.
Mỗi Chúa nhật, thánh I-nhã
và các bạn đến đan viện Notre-Dame de Vauvert
để dự lễ và chia sẻ với nhau về lý tưởng
tông đồ. Ngày
15.8.1534, nhóm bạn bảy người cùng nhau tuyên
khấn sống thanh bần, đi hành hương Giêrusalem và
làm việc tông đồ.
Thánh I-nhã gọi đó là những người bạn trong
Chúa. Một quyết định gần như
đồng thời: thánh I-nhã và các bạn sẽ làm linh
mục để giúp đỡ các linh hồn hơn.
Năm 1535, theo lời khuyên của
bác sĩ, thánh I-nhã về quê chữa bệnh, các bạn ở
lại cứ tiếp tục học, và hẹn sẽ gặp lại nhau để
cùng đi hành hương Giêrusalem.
Ðầu năm 1537, thánh I-nhã
gặp lại các bạn tại Venezia. Lúc này nhóm
bạn đã có tất cả 11 người: nhóm Paris
thu nhận thêm 3 bạn
và thánh I-nhã thu nhận thêm 1 bạn. Trong khi
chờ tàu đi Giêrusalem, các bạn chia nhau đi hoạt
động tông đồ tại miền bắc nước Ý. Lúc ấy Venezia
và Thổ Nhĩ Kỳ đang có chiến tranh, nên cơ may đi
Giêrusalem thật mong manh. Tháng 3 năm 1537, một
mình thánh I-nhã ở lại Venezia, trong khi các
bạn đi Rôma xin phép lành Ðức Giáo Hoàng trước
khi đi hành hương. Ðức Thánh
Cha Phaolô III chẳng những cho phép và chúc lành
cho chuyến hành hương, mà còn cho tiền lộ phí và
cho phép tất cả các bạn chịu chức linh mục.
Thánh I-nhã và 5 bạn khác
thụ phong linh mục vào tháng 6.
(Các bạn khác hoặc đã thụ
phong rồi, hoặc phải chờ khi đủ tuổi). Ðể
chuẩn bị dâng lễ mở tay,
tất cả dành ra một thời gian để cầu nguyện. Sau
đó, tất cả họp nhau tại Vicenza, đồng ý đặt tên
cho nhóm là Ðoàn Giêsu
,
vì chỉ một mình Chúa Giêsu là đầu và là trưởng.
Ðến đây, mọi dự tính của thánh
I-nhã khi ở Giêrusalem về đều đã được thực hiện:
học hành đầy đủ, một nhóm bạn cùng chí hướng và
chức thánh linh mục.
4.
Ðể Ðoàn Giêsu phục vụ Ðức Kitô bằng cách
giúp đỡ các linh hồn hơn: nhận sứ mạng từ Ðức
Thánh Cha (1537-1538)
Cho đến lúc ấy, thánh I-nhã và
các bạn sống rất sâu đậm kinh nghiệm Kitô giáo,
nhưng lại gần như không có quan tâm tích cực nào
đối với giáo quyền, trừ những lần phải xin phép,
bị thẩm vấn, bị giam giữ. Cả nhóm muốn đi
Giêrusalem để trước là sống gần
gũi thân thiết với Chúa Giêsu, sau là có
thể ở lại để giúp người Hồi Giáo tại đó biết và
tin Chúa Giêsu. Nhưng nếu
không đi được? Cả nhóm đã nêu lên hai giả
định: (1) Nếu đi được, tại Giêrusalem cả nhóm sẽ
nhận định xem nên ở lại hay nên về Châu Âu; (2)
Nếu không đi được, hoặc nếu nhóm quyết định trở
vể Châu Âu, cả nhóm sẽ đến đặt mình dưới quyền
Ðức Thánh Cha để ngài trao sứ mạng.
Tại sao nại đến Ðức Thánh
Cha? Vì nhu cầu tông
đồ rất nhiều, không biết nên làm điều nào thì
hơn. Ðức Thánh Cha là
người đứng đầu toàn thể Hội Thánh, nên biết nơi
nào có thể giúp đỡ các linh hồn hơn.
Chẳng những thế, Ðức Thánh Cha chính là đại diện
Ðức Kitô ở trần gian, và đây chính là điều thánh
I-nhã luôn nhấn mạnh, nên nhận sứ mạng từ ngài
là nhận sứ mạng từ chính Ðức Kitô.
Ðiều bao nhiêu năm mới xảy ra
một lần lại xảy ra vào đúng năm 1537: không
có tàu từ Venezia đi Giêrusalem.
Thánh I-nhã và các bạn đi Rôma trình diện Ðức
Thánh Cha.
Các bạn
chia thành mấy toán.
Thánh I-nhã cùng toán với chân phước Phêrô Favre
và cha Laínez. Giữa tháng 11 năm 1537, ba
người bạn đến một địa điểm gọi là La Storta,
cách Rôma chừng 15 km. Tại đó, thánh I-nhã đã có
một kinh nghiệm thiêng liêng hết sức quan trọng
mà người ta quen gọi là thị kiến La Storta.
Trước hết,
thánh I-nhã xác tín đã được ơn mà ngài xin từ
lâu là được đặt với Chúa Con. Từ Loyola,
ngài đã quyết tâm phục vụ Ðức Kitô.
Ở Manresa, như được diễn tả trong bài Hai cờ
hiệu, ngài xin được nhận vào dưới cờ của Ðức
Kitô. Gần hơn, ngài
và các bạn mới tự xưng là Ðoàn Giêsu.
Ở La Storta, ngài thấy như Chúa Cha chỉ ngài mà
nói với Chúa Giêsu đang vác Thánh Giá: "Cha
muốn Con nhận cho người này phục vụ Con."
Rồi Chúa Con nói với ngài: "Ta muốn con phục
vụ Chúng Ta." Không còn
nghi ngờ gì nữa, ngài được liên kết với Ðức Kitô
vác Thánh Giá.
Sau hết, Chúa Cha nói với
thánh I-nhã: "Ta sẽ phù hộ các con ở Rôma."
Vậy là Rôma đã thế chỗ cho Giêrusalem.
Ngài và các bạn muốn đi
Giêrusalem, nhưng Thiên Chúa muốn tất cả đi
Rôma. Từ chỗ muốn phục vụ Ðức Kitô bằng
cách giúp đỡ các linh hồn, theo ý mình thích, ở
nơi mình thích, cụ thể là truyền giáo cho người
Hồi Giáo ở Giêrusalem, nay thánh I-nhã và các
bạn được mời gọi đặt mình dưới sự điều động của
Hội Thánh, mà tiêu biểu là Ðức Giáo Hoàng Rôma,
vị đại diện Ðức Kitô ở trần gian, để ngài cử đi
đâu, làm gì tùy ý.
Cuối tháng 11 năm 1538, thánh
I-nhã cùng với chín người bạn (cha Diego Hoces
đã qua đời trước đó tại Padova) đến trình diện
Ðức Thánh Cha Phaolô III, tự đặt mình dưới quyền
điều động của ngài, sẵn sàng đi bất cứ nơi nào
trên thế giới, thi hành sứ mạng vị đại diện Ðức
Kitô trao phó, để phục vụ Ðức Kitô qua
việc giúp đỡ các linh hồn hơn.
Nguồn
gốc và nền tảng chính yếu đã được thiết lập,
Dòng Tên chỉ còn chờ ngày chính thức ra mắt.
Thánh I-nhã cũng chấm dứt
giai đoạn hành hương để bước vào một giai đoạn
mới. Ngày 25.12.1538, thánh I-nhã dâng lễ
mở tay mừng Chúa Giáng Sinh tại nhà thờ Ðức Bà
Cả Rôma, nơi có giữ một máng cỏ mà người ta cho
là chính máng cỏ Bêlem xưa kia: trước đây ngài
vẫn mong được dâng lễ mở tay tại hang đá Bêlem.
Từ nay, ngài định cư tại
Rôma cho đến khi qua đời.
MƯỜI TÁM NĂM
CUỐI 1538-1556
Ðược 10
linh mục có học, sống nghèo, lại nhiệt thành sẵn
lòng nhận sứ mạng, Ðức Thánh Cha Phaolô III rất
mừng.
Ngài lần lượt cử người này đi dạy thần học,
người kia đi cải tổ
một đan viện, người khác đi truyền giáo ở Ấn Ðộ.
Mùa Chay
năm 1539, thánh I-nhã và các bạn họp nhau tại
Rôma để suy nghĩ về tương lai. Ðây là lần
đầu tiên và cũng là lần duy nhất cả nhóm 10
cha đầu tiên
sống chung với
nhau. Ðoàn Giêsu đã có quá trình gần 5 năm: liên
kết với nhau nhờ Linh Thao, tình bạn gắn bó,
chia sẻ lý tưởng tông đồ. Giờ đây, Ðức Thánh Cha
cử các bạn đi hoạt động tông đồ, người chỗ này,
người chỗ khác, Ðoàn Giêsu đứng trước nguy cơ
tan rã. Hai vấn đề được nêu lên: (1) Ðoàn Giêsu
nên hợp hay tan? (2) Nếu muốn hợp thì phải làm
gì?
Câu hỏi thứ nhất được giải
quyết khá dễ dàng và nhanh chóng: cần duy trì và
củng cố Ðoàn Giêsu, vì Ðoàn do Thiên Chúa đã
liên kết.
Câu hỏi
thứ hai phức tạp hơn nhiều. Tất cả gia
tăng cầu nguyện và hãm mình để xin Chúa soi
sáng. Có nhiề
u ý kiến khác nhau, nhưng cuối
cùng, vấn đề được nêu lên rõ ràng hơn: muốn duy
trì và củng cố Ðoàn Giêsu, có lẽ tốt nhất là mọi
người khấn tuân phục một người do Ðoàn bầu lên
làm bề trên.
Tất cả mau chóng đồng ý là
không có lời khấn tuân phục thì khó lòng duy trì
được Ðoàn Giêsu.
Nhưng nếu khấn tuân phục?
Từ gần 5
năm, các bạn đã sống với nhau mà không ai là bề
trên, không ai phải tuân phục, mọi sự vẫn tốt
đẹp. Biết đâu khi có lời khấn tuân phục,
tình bạn tự do vốn rất đẹp sẽ biến mất, và Ðoàn
Giêsu trở thành một tổ chức gò bó!
Ðoàn Giêsu đã khấn thanh bần
và khiết tịnh, nếu thêm lời khấn tuân phục, Ðoàn
sẽ biến thành một dòng tu.
Nếu Ðoàn trở thành một dòng
tu thì sao? (1) Lúc ấy các dòng tu đang
suy thoái, nên trở thành một dòng tu có
nghĩa là sẽ không ai muốn gia nhập Ðoàn, và dân
chúng cũng không quí mến Ðoàn, nên Ðoàn sẽ không
thâu lượm được hoa trái tông đồ; (2) Nếu biến
thành dòng tu, Ðoàn Giêsu sẽ phải theo qui chế
chung của các dòng tu trong Hội Thánh, hoặc là
sẽ bị Tòa Thánh ghép vào một dòng tu có sẵn,
nghĩa là sẽ phải giam mình trong các tu viện,
phải mặc áo dòng, phải họp nhau hát kinh thần
vụ, phải làm việc hãm mình đền tội: thế là lý
tưởng phục vụ Ðức Kitô bằng việc giúp đỡ các
linh hồn tiêu tan.
Sau gần
một tháng cầu nguyện và nhận định cộng đoàn,
cuối cùng Ðoàn Giêsu đi đến quyết định khấn tuân
phục. Ba lý do chính được nêu lên là: (1)
thi hành thánh ý Thiên Chúa hơn; (2) liên kết
với nhau chặt chẽ và bền vững hơn; (3) anh em
được chăm sóc chu đáo
hơn. Chúng ta nên để ý đến ba chữ hơn:
không khấn tuân phục cũng được, nhưng khấn tuân
phục thì hơn. Ngày 15 tháng 4 năm 1539,
cả nhóm ký tên vào bản cam kết nếu Hội Thánh cho
phép thì Ðoàn Giêsu sẽ khấn tuân phục một bề
trên do anh em bầu lên.
Trong hơn 2 tháng tiếp
theo, các cha đầu
tiên đề ra những nét căn bản của dòng tu mới, đó
là một dòng tu hoạt động tông đồ, dưới quyền
trực tiếp của Ðức Thánh Cha. Ngoài ba lời khấn
khiết tịnh, thanh bần và tuân phục
chung với mọi dòng tu
khác, Ðoàn Giêsu sẽ khấn tuân phục Ðức Thánh Cha
khi ngài trao sứ vụ. Ðể đáp
ứng mục tiêu tông đồ, anh em trong Ðoàn phải
được huấn luyện lâu dài và kỹ lưỡng về đời sống
thiêng liêng và học vấn. Những điều Ðoàn
xét là làm thiệt hại đến mục đích tông đồ của
Ðoàn sẽ bị loại bỏ: tu viện, áo dòng, hát kinh
thần vụ chung, ăn
chay đánh tội. Ðoàn sẽ bầu
một Bề Trên Cả mà mọi người phải khấn tuân phục.
Sau này, thánh I-nhã sẽ viết: "Ơn gọi của
chúng ta là đi đến bất cứ nơi nào trên thế giới
có hy vọng giúp đỡ được các linh hồn." Không
ai đặt vấn đề về tên dòng: Ðoàn Giêsu hay Dòng
Tên trước sau vẫn là Ðoàn của Chúa Giêsu.
Bản Ðịnh Thức Thể Chế, đề ra
những nét chính yếu trên đây, được Ðức Thánh Cha
Phaolô III phê chuẩn ngày 27.9.1540.
Tháng 4 năm 1541, thánh
I-nhã được tất cả các bạn nhất trí bầu làm Bề
Trên Cả tiên khởi của Dòng.
Rồi tất cả chính thức tuyên
4 lời khấn tại nhà thờ Thánh Phaolô Ngoại Thành
Rôma ngày 22.4.1541.
Ðoàn Giêsu chính thức nhập cuộc.
Ðến Việt Nam, Ðoàn Giêsu
được việt hóa thành Dòng Tên.
Trong 15 năm làm Bề Trên Cả,
thánh I-nhã có hai nhiệm vụ chính: (1) Ðiều hành
sinh hoạt Dòng: gởi người đi sứ vụ, huấn luyện
thành viên mới, viết thư cho các anh em khắp
nơi
. Khi ngài
qua đời, Dòng Tên có khoảng 1000 anh em, trải
rộng từ Châu Âu đến Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ.
(2) Soạn thảo Hiến Chương Dòng Tên.
Ðể làm việc này, ngài phải
cầu nguyện, suy nghĩ về kinh nghiệm bản thân và
kinh nghiệm Ðoàn Giêsu, hỏi ý kiến các cha trong
nhóm đầu tiên. Bản Hiến Chương của ngài
khá độc đáo: mỗi người vào Dòng Tên phải sống
lại hành trình và kinh nghiệm thiêng liêng của
ngài và các cha đầu tiên.
Ngoài hai nhiệm vụ chính trên
đây, ngài cũng tham gia hoạt động tông đồ tại
Rôma: cứu giúp nạn nhân các vụ thiên
tai, bênh vực những
người bị thiệt thòi như cộng đồng Do Thái, giới
hành khất, các cô gái lầm lỡ.
Ðặc biệt ngay trong những năm
tháng bận rộn với trăm công ngàn việc này, ngài
đạt tới đỉnh cao của đời sống thần bí.
Thật ra, đối với ngài, thần
bí và tông đồ chỉ là một. Tập Nhật ký
thiêng liêng cho thấy ngài kết hiệp mật
thiết và thâm sâu với Thiên Chúa thế nào, và mọi
điều ngài viết ra, nhất là các điều khoản Hiến
Chương Dòng Tên, đều xuất phát từ kinh nghiệm
thần bí ấy.
Trong
những năm cuối đời, thánh I-nhã đau yếu khá
thường xuyên. Sáng
sớm ngày 31.7.1556, ngài êm ái tắt thở tại trụ
sở Dòng Tên ở Rôma.
Ngài được Ðức Thánh Cha Grêgôriô XV tuyên thánh
năm 1622. Khuôn mặt nổi bật ngài để lại
cho chúng ta là một bạn đường Chúa Giêsu,
tiến từng bước theo
Chúa Thánh Thần hướng dẫn, chứ không đi trước
và khí cụ trong tay Thiên Chúa.
Trở về Nội Dung
1. Cha I-nhã đã nói với tôi
cũng như với các cha khác là ngài đã xin Chúa ba
ơn trước khi lìa khỏi đời này : một là Thể Chế
Dòng được Tòa Thánh phê chuẩn, hai là Linh Thao
cũng được như vậy, ba là ngài soạn xong Hiến
Chương.
2. Nhớ điều ấy và thấy ngài đã
đạt được tất cả
,
tôi sợ rằng ngài sắp được Thiên Chúa gọi đến một
đời sống tốt hơn. Ðược biết là các vị thánh sáng
lập các dòng đan tu thường để lại cho con cái
những lời khuyên, như một bản di chúc, mà các
ngài xét là hữu ích để họ tiến tới trong đức
hạnh, tôi chờ dịp thuận tiện để xin Cha I-nhã
cũng làm như vậy
.
Vào năm 1551
, một hôm
gặp cha I-nhã, và được nghe ngài nói :
"Lúc này tôi vượt trên chín tầng mây rồi",
tôi hiểu điều ấy nghĩa là ngài đã xuất thần
hay ngất trí, như thường xảy ra cho ngài. Với
lòng kính trọng sâu xa nhất, tôi hỏi: "Cha
nói vậy là sao ?",
nhưng ngài chuyển đề tài trao đổi sang điều
khác
.
Cho là giây phút thuận tiện đã đến, tôi xin ngài
thương kể cho chúng tôi biết Chúa đã hướng dẫn
ngài thế nào từ khi ngài bắt đầu hoán cải, để
chuyện ngài kể sẽ trở nên cho chúng tôi như một
bản di chúc hay một bản huấn dụ của người cha
cho con cái. Tôi nói với
ngài : "Thưa cha, vì Chúa đã ban cho
cha đủ ba ơn cha ước ao trước khi chết, chúng
con sợ là chẳng bao lâu nữa Chúa sẽ gọi cha về
trời."
3. Ngài thoái thác, nại lý do
bận việc. Ngài nói không thể dành thời giờ hay
chú tâm cho việc đó được. Tuy nhiên, ngài cũng
thêm: "Xin cha cùng với cha Polanco
và cha Ponce
dâng ba lễ theo ý đó,
và sau khi cầu nguyện, xin nói cho tôi biết cha
nghĩ thế nào." Tôi đáp: "Thưa cha, chúng
con sẽ vẫn nghĩ như bây giờ." Nhưng ngài nói
rất tử tế:"Xin cha cứ làm như tôi đã nói."
Chúng tôi dâng ba lễ,
rồi báo cho ngài biết chúng tôi vẫn nghĩ vậy, và
ngài hứa sẽ làm điều chúng tôi xin.
Năm sau, từ đảo Sicilia về lần
thứ hai, để đi Tây Ban Nha, tôi hỏi ngài xem đã
làm gì chưa, ngài đáp: "Chưa làm chi hết."
Ở Tây Ban Nha về lại năm 1554, tôi lại hỏi ngài,
nhưng ngài vẫn chưa khởi sự
. Không
biết bị ai thúc bách, tôi đẩy
thêm : "Tính đến
nay đã bốn năm rồi, chẳng những con mà các anh
em khác cũng xin cha thuật lại cho chúng con
biết Chúa đã rèn luyện cha thế nào từ khi cha
bắt đầu hoán cải, vì chúng con tin chắc là điều
ấy rất hữu ích cho chúng con cũng như cho cả
Dòng. Nhưng con thấy là cha không chịu làm, nên
con dám quả quyết: nếu cha chấp thuận điều chúng
con tha thiết mong ước, chúng con sẽ tận dụng
những gì cha để lại; còn nếu cha không làm,
chúng con cũng không vì vậy mà suy sụp đâu, và
chúng con vẫn giữ nguyên lòng tin tưởng nơi Chúa
như thể chính cha đã viết hết."
4. Ngài không trả lời chi cả,
nhưng tôi nghĩ là đúng hôm ấy ngài gọi cha Luis
Gonalves đến và bắt đầu kể. Cha này được Chúa
ban cho trí nhớ tuyệt vời sau đó đã ghi chép
lại. Cha Luis là đại biểu ở Ðại
Hội
, trong đó
cha được bầu làm phụ tá cho cha Bề Trên Cả
Laínez. Về sau, cha ấy dạy
riêng về văn chương và luân lý Công Giáo cho vua
Sebastian nước Bồ Ðào Nha.
Người ta nhìn nhận đó là một
linh mục đạo hạnh và rất nhân đức. Cha
Gonalves viết một phần bằng tiếng Tây Ban Nha,
một phần bằng tiếng Ý, tùy
theo người chép mà cha ấy có được. Cha
Annibal du Coudret, một người học thức và đạo
hạnh, đã dịch sang tiếng Latinh.
Cả tác giả lẫn dịch giả đều
còn sống.
Trở về Nội Dung
LỜi nói đẦu
cỦa Cha Luis G. da Câmara
1. Vào một
buổi sáng, hôm ấy là thứ sáu ngày 4 tháng 8, áp
lễ Ðức Mẹ Xuống
Tuyết
năm 1553, trong khi Cha
đang ở trong vườn, gần nhà hay căn hộ gọi là của
công tước
,
tôi bắt đầu kể cho Cha nghe một số điều liên
quan đến linh hồn mình, và trong những điều tôi
kể, có nói đến hư vinh. Ðể chữa trị, Cha khuyên
tôi thỉnh thoảng đến thưa chuyện với Chúa về
những việc của mình, dâng lên Chúa tất cả những
gì là tốt đẹp nơi mình, và nhìn nhận tất cả là
ân huệ của Chúa, để tạ ơn Chúa về những điều ấy.
Cha nói làm tôi rất xúc động, không sao cầm được
nước mắt. Rồi Cha cho tôi biết Cha đã chiến đấu
chống lại tật xấu ấy trong suốt hai năm, đến nỗi
khi sắp xuống tàu ở Barcelona để đi Giêrusalem,
Cha không dám nói với ai là mình đi
Giêrusalem
. Và trong các trường hợp khác
cũng vậy. Cha thêm là về mặt này, tâm hồn Cha từ
đó về sau rất bình an
.
Một hay hai
giờ sau, ở bàn ăn, đang lúc cha Polanco và tôi
cùng ăn với Cha, Cha nói là nhiều lần cha Nadal
và những người khác trong Dòng đã nài nỉ
Cha
nhưng Cha chưa bao giờ quyết định được
.
Giờ đây, sau khi nói với tôi, Cha về phòng, và
Cha cảm thấy được thúc đẩy mãnh liệt để đáp ứng.
Cha quyết định thực hiện điều đó, tức là thuật
lại tất cả những gì đã xảy ra trong tâm hồn Cha
cho đến lúc này, đồng thời Cha quyết định tôi sẽ
là người được Cha bày tỏ những điều
ấy
.
Cách Cha nói cho thấy rõ là Chúa gợi hứng cho
Cha để thấy bổn phận phải làm gì.
2. Lúc ấy, Cha
rất đau yếu, và không có thói quen hứa làm gì dù
chỉ là một ngày sau. Khi có ai nói : "Hai
tuần nữa" hay "một tuần nữa tôi sẽ làm",
Cha phần nào ngạc nhiên và luôn luôn hỏi:
"Sao? Còn sống được lâu vậy sao?" Tuy nhiên,
trong dịp này, Cha nói Cha hi vọng sẽ sống được
ba hay bốn tháng để hoàn tất công việc. Hôm sau
tôi hỏi Cha khi nào thì bắt đầu, Cha trả lời là
hằng ngày tôi phải nhắc Cha (tôi không nhớ được
là bao nhiêu ngày!), cho tới khi Cha cảm thấy
sẵn sàng. Vì công việc dồn dập, không có thời
giờ, Cha muốn tôi mỗi Chúa nhật lại nhắc Cha.
Thế là đến tháng 9 (tôi không nhớ ngày nào), Cha
gọi tôi và bắt đầu kể cho tôi nghe toàn bộ đời
sống Cha, cả những chuyện nông nổi thời trai
trẻ
,
tất cả đều rõ ràng, rành rẽ, chi li. Sau đó, vẫn
trong tháng ấy, Cha gọi tôi ba hay bốn lần và kể
chuyện đời sống Cha cho tới những ngày đầu Cha ở
Manresa, như người ta có thể thấy được vì chữ
viết khác nhau
.
3. Cách Cha
thuật chuyện vẫn là cách Cha vẫn làm bình thường
trong mọi thứ khác: Cha thuật rõ ràng, làm cho
người nghe có cảm tưởng quá khứ hiện ra ngay
trước mắt. Không cần hỏi Cha chi hết, vì bất cứ
điều gì thiết yếu để hiểu Cha đều nhớ thuật lại.
Ngay lập tức tôi lẳng lặng đi ghi lại, lần đầu
tự tay tôi viết các điểm tóm lược, sau đó dài
hơn nhiều, như bản viết hiện nay. Tôi đã cố gắng
không viết một chữ nào ngoài những điều tôi đã
nghe Cha nói
.
Ðiều tôi sợ là, vì không muốn viết gì ngoài lời
Cha nói, tôi không làm nổi lên được một số điều.
Như đã nói
trên, tôi đã khởi sự viết những điều này vào
tháng 9 năm 1553. Từ đó tới khi cha Nadal đến,
ngày 18.1.1554, Cha luôn luôn cáo lỗi, nêu lên
việc cha bị đau yếu này nọ, hoặc giải quyết việc
này việc khác. Cha bảo tôi:
"Khi xong việc này, xin nhắc tôi." Và khi
xong việc, tôi nhắc, Cha lại bảo : "Lúc này
phải lo việc khác. Khi nào xong, xin nhắc tôi."
4. Khi cha
Nadal đến và thấy công việc đã bắt đầu rồi thì
vui lắm, bảo tôi hối thúc Cha tiếp tục, và nói
với tôi nhiều lần là Cha không làm được gì tốt
cho Dòng hơn điều ấy, vì đó là cho Dòng nền móng
đích thực
.
Chính cha ấy nói với Cha nhiều lần, và Cha bảo
tôi nhắc khi việc gây quỹ cho Học Viện
hoàn tất. Khi việc ấy xong, lại phải chờ giải
quyết xong vụ Tư Tế Gioan
và sau khi gởi thư từ
xong.
Chúng tôi tiếp
tục câu chuyện vào ngày 9 tháng
3
.
Lúc ấy Ðức Giáo Hoàng Giuliô III bệnh nặng và
qua đời ngày 23, và Cha hẹn sẽ tiếp tục khi có
Ðức Giáo Hoàng mới, đó là Ðức Marcellô II. Rồi
Cha lại hoãn cho tới khi Ðức Giáo Hoàng Phaolô
IV được bầu. Sau đó, vì trời nóng và bận việc,
Cha hoãn mãi đến ngày 21 tháng 9, khi đặt vấn đề
tôi được gởi đi Tây Ban Nha. Nại lý do này, tôi
hối thúc tới tấp đòi Cha phải giữ lời hứa với
tôi. Thế là Cha lên chương trình gặp tôi vào
buổi sáng ngày 22 tại Tháp
Ðỏ
.
Sau khi dâng lễ, tôi đến hỏi Cha tới giờ chưa.
5. Cha bảo tôi
cứ đến chờ Cha ở Tháp Ðỏ, và tôi phải có mặt sẵn
khi Cha đến. Tôi nghĩ là phải đợi Cha ít lâu,
nên khi tôi nói chuyện với một tu huynh hỏi
chuyện tôi ở hành lang, Cha đến và quở trách tôi
không vâng lời, vì không đến đợi Cha ở chỗ hẹn.
Hôm ấy Cha không chịu làm chi hết. Chúng tôi đến
nài nỉ Cha tiếp tục. Cha đến Tháp Ðỏ và Cha vừa
đi vừa kể, như mọi khi. Tôi nhích lại càng ngày
càng gần Cha hơn, để quan sát nét mặt rõ hơn,
nhưng Cha nói: "Phải giữ
luật
."
Tạm quên lời nhắc nhở, tôi cứ đến gần Cha, hai
hay ba lần, Cha lại nhắc rồi tiếp tục. Sau đó,
Cha tiếp tục trở lại Tháp để kể cho xong, như
tôi ghi lại được. Vì tôi phải dành thời giờ để
chuẩn bị cho chuyến đi (hôm trước ngày tôi lên
đường cũng là ngày cuối Cha nói với tôi về những
điều ấy), tôi không thể ghi lại đầy đủ mọi sự ở
Rôma. Ðến Genova, vì không có người biết tiếng
Tây Ban Nha để chép, tôi đã đọc bằng tiếng Ý,
dựa trên những điều tôi đã ghi được ở Rôma và
đem theo.
Tôi hoàn tất
công việc vào tháng 12 năm 1555.
Trở về Nội Dung
1
Cho đến năm 26 tuổi
,
kẻ ấy
chỉ mải mê với những chuyện phù phiếm thế gian,
đặc biệt là ham mê võ nghệ
,
với ước ao mãnh liệt và phù phiếm là được nổi
tiếng
.
Vì vậy, đang
lúc ở trong một pháo đài bị quân Pháp
công hãm, và mọi người đồng ý là phải đầu hàng
để thoát chết (vì họ thấy rõ không thể tự vệ
được), kẻ ấy đưa ra cho vị chỉ huy
bao nhiêu lý lẽ để rồi thuyết phục được người
này cố thủ, bất chấp ý kiến của tất cả các hiệp
sĩ
.
Những người này thấy kẻ ấy can đảm và kiên quyết
thì cũng vững lòng.
Khi đến ngày
biết là sẽ bị tấn
công
,
kẻ ấy xưng tội với một chiến hữu
.
Cuộc tấn công kéo dài được khá lâu thì kẻ ấy bị
trúng đạn
vào một chân làm nó gãy nát ra. Vì đạn đi qua
giữa hai chân, nên chân kia cũng bị thương
nặng
.
2
Kẻ ấy ngã xuống rồi, những người trong pháo đài
đầu hàng người Pháp
.
Sau khi chiếm được pháo đài, họ đối xử với người
bị thương rất tử tế, vừa lịch sự, vừa thân
thiện
.
Sau 12 hay 15 ngày ở Pamplona, họ dùng cáng
khiêng kẻ ấy về quê
.
Tại đây, vì bệnh tình kẻ ấy rất tồi tệ, người ta
đã mời các bác sĩ và các nhà phẫu thuật từ nhiều
nơi đến. Theo họ thì phải kéo cái chân ra lại,
xếp lại các xương đâu vào đó, vì lần trước đã
làm sai, hoặc vì khi di chuyển các xương đã xê
dịch, nên không ở đúng chỗ, và như vậy thì không
khỏi được. Thế là kẻ ấy bị làm thịt lần nữa. Y
như những lần trước đó, lần này kẻ ấy cũng không
nói một tiếng nào, cũng không tỏ dấu hiệu đau
đớn nào, ngoài việc nắm chặt hai bàn
tay
.
3
Nhưng bệnh tình càng ngày càng tệ hơn. Kẻ ấy
không ăn được và có những triệu chứng khác như
người ta thường thấy nơi một người sắp chết. Ðến
lễ thánh Gioan
,
vì các bác sĩ không tin tưởng kẻ ấy sẽ hồi phục
được, nên kẻ ấy được khuyên nên xưng tội. Khi kẻ
ấy chịu các bí tích
,
vào chiều hôm trước lễ hai thánh Phêrô và Phaolô
,
các bác sĩ cho biết nếu đến nửa đêm mà kẻ ấy
không khá hơn thì kể như là chết. Bệnh nhân vốn
có lòng sùng kính thánh
Phêrô
,
và Chúa thương cho kẻ ấy bắt đầu cảm thấy khá
hơn ngay chính nửa đêm hôm ấy. Và bệnh tình được
cải thiện nhiều đến nỗi chỉ mấy ngày sau, người
ta cho rằng kẻ ấy đã thoát cơn nguy tử.
4
Chẳng bao lâu, các miếng xương kết dính lại với
nhau, nhưng bên dưới đầu gối lại có một cái
xương chồm lên trên một cái khác, vì vậy mà chân
bị rút ngắn lại, và cái xương kia nhô lên, làm
cho nhìn chẳng đẹp mắt mấy. Ðã quyết chí theo
đuổi thế gian
,
và cho rằng để như vậy thì xấu xí
,
kẻ ấy không thể chịu được, nên hỏi các nhà phẫu
thuật xem có thể cắt đi được không. Họ trả lời
là có thể cắt được, nhưng sẽ phải chịu đau đớn
hơn tất cả những gì kẻ ấy đã phải chịu trước đó,
vì vết thương đã lành và phẫu thuật đòi hỏi
nhiều thời giờ. Tuy nhiên, kẻ ấy nhất mực đòi
bằng được, cho dầu người anh hoảng sợ cho biết
chính anh ấy sẽ không dám để cho người ta hành
hạ như vậy. Người bị thương vẫn chịu đựng với sự
nhẫn nhục thường lệ
.
5
Sau khi xẻ thịt và cắt khúc xương nhô lên, người
ta làm hết cách để cái chân khỏi bị rút ngắn
lại. Phải dùng nhiều thuốc và máy móc để kéo
chân cho dài ra lại. Kẻ ấy chịu cực hình như vậy
trong nhiều ngày.
Nhưng Chúa cho
kẻ ấy được hồi phục. Kẻ ấy khỏe mạnh và tình
trạng tổng quát rất khả quan, trừ việc kẻ ấy
chưa thể đi đứng được, nên buộc phải ở trên
giường. Thấy mình đã khỏe lại, kẻ ấy xin một số
tiểu thuyết gọi là kiếm hiệp[60]
để đọc cho qua ngày đoạn tháng, vì kẻ ấy
vốn thích loại sách trần tục và dối trá
ấy. Nhưng khắp cả nhà, không tìm đâu được một
cuốn nào trong số những cuốn kẻ ấy thường đọc;
người ta đem đến cho kẻ ấy một cuốn Cuộc Ðời
Ðức Kitô
và một cuốn về cuộc đời các
thánh
bằng tiếng Tây Ban Nha.
6
Kẻ ấy thường xuyên đọc hai cuốn ấy, và phần nào
cảm thấy bị thu hút vào những điều kể trong
sách. Khi ngưng đọc, kẻ ấy suy nghĩ, lúc thì về
những điều đã đọc được, lúc thì về những điều
thế gian trước kia kẻ ấy vẫn thường nghĩ tới.
Trong số tất
cả những ý tưởng phù phiếm đến trong trí, có một
điều chi phối và xâm chiếm tâm hồn đến nỗi kẻ ấy
mơ mộng suốt hai, ba hay bốn giờ mà không nhận
ra. Kẻ ấy tưởng tượng những điều phải làm cho
một thiếu nữ quí
phái
,
phương tiện sẽ dùng để đến nơi nàng ở, những vần
thơ
,
những lời lẽ sẽ nói với nàng, những chiến công
sẽ phải có để dâng cho nàng. Kẻ ấy quá tự phụ
nên không thấy được là điều ấy không sao thực
hiện được, vì thiếu nữ quí phái này không chỉ
thuộc hàng quí tộc bình thường như bá tước hay
công tước, nhưng ở hàng cao hơn thế
nữa
.
7
Tuy nhiên, Thiên Chúa đã đến cứu giúp kẻ ấy: sau
những ý tưởng ấy là những ý tưởng khác, thai
nghén từ những gì đọc được trong sách. Khi đọc
về cuộc đời Chúa Giêsu và các thánh, thỉnh
thoảng kẻ ấy suy nghĩ và tự nhủ: "Giả như tôi
làm những điều thánh Phanxicô và thánh Ðaminh đã
làm thì sao?"
Kẻ ấy cũng nghĩ đến nhiều điều cho là tốt
và luôn luôn nhắm đến những việc khó khăn và
nhọc nhằn. Khi tự đề ra cho mình những việc ấy,
kẻ ấy có cảm giác là sẽ dễ thực hiện. Trong suốt
thời gian suy tính như vậy, kẻ ấy vẫn tự nhủ:
"Thánh Ðaminh đã làm điều này, vậy tôi cũng phải
làm; thánh Phanxicô đã làm điều kia, vậy tôi
cũng phải làm." Cả những suy nghĩ này cũng
kéo dài một lúc lâu, rồi bị những ý tưởng khác
cắt ngang, và tâm trí kẻ ấy lại quay về với
những ý tưởng trần tục đã nói trên; những ý
tưởng này cũng kéo dài một lúc lâu. Những ý
tưởng rất khác biệt như vậy lần lượt nối tiếp
nhau trong một thời gian lâu dài. Dầu là những
kỳ tích thế gian mà kẻ ấy ước ao đạt được hay
những kỳ tích mà trí tưởng tượng gợi lên để kẻ
ấy làm cho Thiên Chúa, kẻ ấy luôn luôn dành thời
giờ để suy nghĩ về những điều hiện đến trong
trí, cho đến khi mệt, kẻ ấy mới bỏ điều này để
nghĩ sang điều khác.
8
Dầu vậy, có sự khác biệt này: khi nghĩ đến những
chuyện thế gian, kẻ ấy rất thích thú; nhưng khi
mệt mỏi, thôi không nghĩ nữa, lại thấy trống
rỗng và buồn chán; trái lại, khi nghĩ về việc đi
chân đất đến Giêrusalem
,
chỉ ăn rau cỏ, và làm những việc khổ chế như các
thánh đã làm, chẳng những ngay lúc ấy kẻ ấy cảm
thấy an ủi
,
mà cả sau khi thôi
không nghĩ đến nữa vẫn thấy vui và thích. Lúc
đầu kẻ ấy không để ý điều ấy nên không dừng lại
để suy xét về sự khác biệt. Một hôm, mắt kẻ ấy
phần nào mở ra: kẻ ấy bắt đầu ngạc nhiên về sự
khác biệt này, nên khởi sự suy tư. Kinh nghiệm
cho kẻ ấy thấy có những ý tưởng khiến kẻ ấy
buồn, có những ý tưởng giúp kẻ ấy vui. Dần dần
kẻ ấy nhận ra các tác nhân
khác nhau tác động nơi mình, tác động của ma quỉ
và tác động của Thiên Chúa.
Ðây là
lần đầu tiên Cha suy tư về những điều thuộc về
Thiên Chúa. Sau này, khi tập Linh Thao, ngài sẽ
khởi từ đây để rút ra những ánh sáng đầu tiên về
các tác nhân khác nhau .
9
Nhờ đọc sách, kẻ ấy được soi sáng khá nhiều, nên
bắt đầu suy nghĩ nghiêm chỉnh hơn về đời sống
quá khứ của mình, và thấy rất cần phải làm việc
đền tội
.
Chính lúc ấy, kẻ ấy nảy sinh lòng ao ước bắt
chước các thánh
.
Kẻ ấy không lưu ý được hoàn cảnh riêng của từng
vị, nhưng tự hứa với mình là, nhờ ơn Chúa, phải
làm những điều các ngài đã làm. Nhưng điều kẻ ấy
ước ao hơn hết là, ngay sau khi bình phục, sẽ đi
Giêrusalem, như đã nói trên, và ăn chay đánh tội
theo như một tâm hồn quảng đại và sốt mến Chúa
có thể ước ao thực hiện
.
10
Nhờ các ước muốn thánh thiện,
kẻ ấy quên đi các mơ mộng xưa kia. Các ước muốn
thánh thiện lại được xác chuẩn
bằng thị kiến sau đây. Một đêm
kia, không ngủ, kẻ ấy thấy rõ ràng hình ảnh Ðức
Mẹ cùng với Chúa Giêsu Hài Ðồng. Khi thấy như
vậy, kẻ ấy cảm thấy rất hứng khởi một lúc khá
lâu. Kẻ ấy cảm thấy ghê tởm tất cả cuộc sống quá
khứ, đặc biệt là những chuyện xác thịt, và có
cảm tưởng như tất cả những hình ảnh từng được
ghi khắc vào tâm hồn mình đều bị xoá bỏ. Từ hôm
ấy cho đến tháng 8 năm 1553, khi kể những điều
này, kẻ ấy không bao giờ mảy may ưng thuận với
những cám dỗ xác thịt
.
Do đó, có thể chắc chắn thị kiến ấy xuất phát từ
Thiên Chúa, mặc dầu kẻ ấy không dám quả quyết
như vậy, và không khẳng định gì ngoài những điều
trên đây
.
Anh của kẻ ấy, cũng như mọi người khác trong
nhà, căn cứ vào những điều bên ngoài, đều ghi
nhận sự thay đổi đang diễn ra trong tâm hồn kẻ
ấy.
11
Riêng kẻ ấy, chẳng bận tâm gì, cứ mải miết đọc
sách và dự tính những việc tốt sẽ làm. Hễ có dịp
nói chuyện với người nhà, kẻ ấy chỉ nói những
điều về Thiên Chúa, nhằm mưu ích cho linh hồn
họ
.
Thấy những
cuốn sách mình đọc rất hay, kẻ ấy nảy ra ý chép
lại những điều quan trọng nhất trong đời sống
Ðức Kitô và các thánh, làm như một bản tóm lược.
Kẻ ấy bắt đầu rất chăm chú viết một cuốn sách.
Lúc ấy, kẻ ấy cũng bắt đầu đứng lên và đi lại
trong nhà được rồi. Kẻ ấy viết các lời của Ðức
Kitô bằng mực đỏ, các lời của Ðức Mẹ bằng mực
xanh. Tập này dày khoảng 300 trang giấy
khổ lớn viết kín hết. Giấy thì láng và
có hàng kẻ, tất cả đều viết rất đẹp, vì kẻ ấy
viết chữ rất đẹp.
Kẻ ấy dành một
phần thời giờ để viết, phần còn lại để cầu
nguyện. Kẻ ấy được sốt sắng nhất khi nhìn lên
trời và các vì sao. Kẻ ấy thường nhìn như vậy và
nhìn lâu giờ, vì điều này làm cho kẻ ấy cảm thấy
rất hứng khởi để phục vụ
Chúa
.
Kẻ ấy thường xuyên nghĩ đến quyết tâm đã có và
ước gì mình khỏi hoàn toàn rồi để lên đường.
12
Khi suy tính mình sẽ làm gì sau khi đi
Giêrusalem về, để luôn luôn làm việc hãm mình
đền tội, kẻ ấy dự tính sẽ lui vào đan viện
Chartreux ở Sevilla
,
không cho ai biết mình là ai, để người ta khỏi
kính nể, và chỉ ăn rau cỏ thôi. Nhưng vào những
lúc khác, khi suy nghĩ đến việc đi khắp thế giới
để làm những việc đền tội kẻ ấy ước ao thực
hiện, ước muốn vào dòng Chartreux của kẻ ấy
nguội lạnh đi: kẻ ấy sợ ở đó không được tự do
thể hiện sự thù ghét mình có đối với bản
thân[82].
Dầu vậy, lúc ấy có một gia nhân phải đi
Burgos
,
nên kẻ ấy bảo người ấy đến hỏi cho biết luật lệ
dòng Chartreux, và thấy luật ấy hay. Tuy nhiên,
vì lý do nêu trên, và vì kẻ ấy hoàn toàn bị hút
vào chuyến đi sắp thực hiện, còn việc kia thì
sau khi về sẽ tính, nên không quan tâm bao
nhiêu. Thay vào đó, thấy mình đã phần nào khỏe
mạnh, khởi hành được rồi, kẻ ấy thưa với anh:
"Anh biết đó, công tước Nájera
đã biết là em khỏi rồi. Chắc em phải đi
Navarrete." (Lúc ấy,
ông công tước đang ở đó.) Ông anh dẫn kẻ ấy từ
phòng này sang phòng khác, tỏ nhiều dấu cho thấy
sự ngạc nhiên, và xin kẻ ấy đừng uổng phí một
đời: phải nghĩ đến người ta kỳ vọng nơi mình thế
nào, và giá trị của mình thế nào, và những lời
tương tự. Anh kẻ ấy và một số người trong
nhà nghi là kẻ ấy sắp có thay đổi lớn.
Nhưng kẻ ấy trả lời khéo, không sai sự thật vì
kẻ ấy đã rất sợ nói sai, và thoát được người
anh.
13
Khi kẻ ấy lên la
để khởi hành
,
một người anh khác
muốn cùng đi với kẻ ấy đến Onate
.
Trên đường, kẻ ấy thuyết phục được người anh
cùng đến canh thức tại đền Ðức Mẹ
Aránzazu
.
Ðêm ấy, kẻ ấy xin được thêm sức mạnh
để thực hiện chuyến đi.
Từ ngày rời bỏ gia đình, đêm nào Cha cũng
đánh tội.
Ðến Onate,
người anh ở lại với người chị mà người anh tính
đến thăm
,
còn kẻ ấy đi tiếp đến Navarrete
.
Kẻ ấy nhớ là vị công tước còn nợ mình một số
tiền
,
nên viết một hóa đơn cho viên quản lý. Người này
cho biết ông không còn tiền để
trả
.
Ðược tin ấy, vị công tước cho biết ông có thể
thiếu tiền bất kỳ ai khác, nhưng không được
thiếu một người thuộc gia đình Loyola. Vì những
công trạng kẻ ấy đã lập được trong quá khứ, vị
công tước còn muốn trao cho kẻ ấy một chức vụ
quan trọng, nếu kẻ ấy muốn
nhận
.
Kẻ ấy nhận tiền, thanh toán nợ nần, phần còn lại
để sửa sang và trang hoàng một ảnh tượng Ðức Mẹ
đã cũ kỹ
.
Tạm biệt hai người đầy tớ tháp tùng, kẻ ấy rời
Navarrete, lên la, một mình hướng về
Montserrat
.
14
Trên đường
có một chuyện xảy ra nên ghi nhận để người ta
hiểu được Chúa đã đối xử với linh hồn ấy còn tối
tăm mặc dầu đầy những ước nguyện nóng bỏng theo
Chúa bất kỳ cách nào biết được. Chính vì vậy, kẻ
ấy quyết định làm những việc phạt xác gắt gao,
không chỉ để đền tội, nhưng chính là để làm vừa
lòng Chúa và vui lòng Chúa.
Cha đã chê ghét tội lỗi quá khứ và rất ước ao
làm những việc lớn lao vì yêu mến Chúa nên mặc
dầu không ỷ y Chúa đã tha thứ hết tội lỗi, Cha
vẫn không chú tâm lắm đến tội lỗi khi tự ý làm
việc phạt xác.
Khi nhớ đến
một việc phạt xác các thánh đã làm xưa
kia
,
kẻ ấy nghĩ mình cũng phải làm như vậy, và ngay
cả hơn nữa
.
Tất cả mọi an ủi kẻ ấy có được đều xuất phát từ
những ý tưởng như vậy. Kẻ ấy không hề chú tâm gì
đến chiều sâu nội tâm, cũng chẳng biết thế nào
là khiêm tốn, bác ái, kiên nhẫn, hay đức khôn
ngoan là khuôn mẫu và thước đo các nhân đức ấy.
Kẻ ấy chỉ có ý thực hiện những công to việc lớn
bên ngoài, vì các thánh đã từng làm như vậy
để tôn vinh Thiên Chúa
mà không để ý gì đến những hoàn cảnh riêng của
mỗi vị.
15
Kẻ ấy đang đi đường thì có một anh chàng Môrô
cỡi la bắt kịp. Trong khi hai bên trao đổi với
nhau chuyện này chuyện kia, họ nói đến Ðức
Mẹ
.
Anh chàng Môrô nói chắc Ðức Mẹ thụ thai mà không
cần đến người nam, nhưng không thể tin là khi
sinh con, Ðức Mẹ vẫn còn đồng
trinh
.
Anh ta đưa ra những lý lẽ thuộc bình diện tự
nhiên nảy sinh trong trí. Mặc dầu kẻ hành hương
đem bao nhiêu luận cứ ra chống đỡ, nhưng
vẫn không làm được anh ta thay đổi ý kiến. Anh
chàng Môrô lúc ấy phóng nhanh lên trước rồi mất
hút
;
kẻ ấy nghĩ lại những điều vừa diễn ra. Một số
cảm xúc trỗi dậy trong kẻ ấy và gợi lên trong
lòng sự bất bình, vì kẻ ấy có cảm tưởng đã không
tròn bổn phận
.
Lòng đầy tức giận anh chàng Môrô, và tự cho là
mình đã sai khi để anh ta xổ ra những lời lẽ như
vậy về Ðức Mẹ, kẻ ấy thấy nhất định phải bảo vệ
danh dự cho Ðức Mẹ. Phải đuổi theo anh ta và cho
anh ta mấy nhát dao găm, vì đã nói như
vậy
.
Ý tưởng này thúc đẩy kẻ ấy một lúc lâu, nhưng
cuối cùng kẻ ấy lưỡng lự, không biết phải làm
gì
.
Trước khi phóng lên mất hút, anh chàng Môrô đã
nói là sẽ đến một nơi cách đó không xa, gần ngay
đường lớn, nhưng đường lớn không chạy ngang
qua
.
16
Mãi không biết nên làm thế nào thì hơn, không
quyết định dứt khoát được, kẻ ấy quyết định thế
này: thả lỏng dây cương trên cổ la, để nó đi đến
chỗ ngã ba; nếu nó theo con đường vào làng, kẻ
ấy sẽ đi tìm anh chàng Môrô và cho anh ta ăn dao
găm; nếu nó theo đường lớn, không vào làng, thì
sẽ bỏ qua cho anh ta. Nghĩ sao kẻ ấy làm vậy,
nhưng Chúa đã muốn cho con la theo đường lớn chứ
không theo đường vào làng, mặc dầu làng chỉ cách
đó 30 hay 40 bước, mà đường vào làng vừa rộng
vừa tốt
.
Ðến một làng
lớn
trước khi tới Montserrat, kẻ ấy mua quần áo dự
tính sẽ mặc để đi Giêrusalem. Kẻ ấy mua loại vải
bố, dệt thô và nhám, rồi may một cái áo dài đến
gót chân. Kẻ ấy cũng kiếm được một cái gậy và
một bi đông
,
buộc tất cả vào cái yên trên lưng con la
.
Cha cũng mua một đôi giày vải đế cói, nhưng
chỉ mang một chiếc, không phải vì lập dị, nhưng
vì một chân còn phải băng và còn khá đau. Cho dù
đi ngựa, mỗi tối chân ấy vẫn sưng lên, vì thế
Cha nghĩ là bàn chân ấy phải mang giày.
17
Kẻ ấy đi tiếp lên Montserrat
,
vẫn mơ tưởng sẽ thực hiện những kỳ tích vì yêu
mến Thiên Chúa. Vì đầu óc đầy những ý tưởng về
kỳ tích, như kẻ ấy đã đọc được trong bộ Amadis
de Gaula
và những sách truyện tương tự, nên kẻ ấy quyết
định làm một đêm canh thức võ trang, trọn một
đêm, không ngồi hay nằm, nhưng khi thì đứng, lúc
thì quì trước bàn thờ Ðức Mẹ ở Montserrat
Kẻ ấy cũng quyết định
tại đó sẽ cởi bỏ trang phục đang mặc để mang
trang phục của Ðức Kitô
.
Bỏ nơi ấy, kẻ
ấy tiếp tục hành trình, vẫn nghĩ về các dự tính
như mọi khi. Ðến Montserrat, sau khi đã cầu
nguyện và đã đồng ý với cha giải
tội
,
kẻ ấy dành ra ba ngày để xưng tội chung, ghi các
tội trên giấy
.
Kẻ ấy cũng thu xếp với cha giải tội để đan viện
nhận con la, và treo kiếm và dao găm ở bàn thờ
Ðức Mẹ trong nhà thờ
.
Cha giải tội này là người đầu tiên được kẻ ấy
cho biết các dự tính, vì cho đến lúc ấy, kẻ ấy
chưa bày tỏ cho cha giải tội
nào
.
18
Hôm trước ngày lễ Ðức Mẹ trong tháng 3 năm
1522
,
vào lúc đêm xuống, kẻ ấy ra đi, hết sức kín đáo.
Tìm được một người nghèo, kẻ ấy cởi bỏ trang
phục của mình
,
cho người ấy, và mặc chiếc áo mình từng ao ước
.
Kẻ ấy đến quì trước bàn thờ Ðức Mẹ, tay cầm gậy,
ở đó suốt đêm, khi quỳ, lúc
đứng
.
Sáng tinh sương, kẻ ấy ra đi, để khỏi ai
biết
.
Kẻ ấy không theo đường đến thẳng
Barcelona
,
vì sợ có thể gặp nhiều người quen biết và kính
nể
,
nhưng đi đường vòng đến một làng gọi là Manresa
để lưu lại trong một nhà tế bần
,
ở đó mấy ngày và ghi chép đôi điều trong cuốn vở
kẻ ấy giữ rất cẩn thận và đem lại cho kẻ ấy
nhiều an ủi
Ði khỏi
Montserrat chừng một dặm, kẻ ấy bị một người
đuổi theo và bắt kịp. Người này hỏi có phải kẻ
ấy đã cho một người nghèo quần áo như anh ta
khai không
.
Khi trả lời đúng mình đã làm như vậy, kẻ ấy ứa
nước mắt vì cảm thương người đã được kẻ ấy cho
quần áo: thế nào anh ta cũng bị làm phiền vì bị
nghi là kẻ cắp.
Mặc dầu đã hết
sức tránh việc người ta tỏ lòng quí trọng, kẻ ấy
mới đến Manresa chưa được bao lâu thì người ta
đã nói nhiều điều về kẻ ấy, tất cả vì những gì
đã diễn ra tại Montserrat. Kẻ ấy càng nổi tiếng
hơn và người ta nói còn hơn cả sự thật nữa: thí
dụ kẻ ấy đã từ bỏ một gia tài khổng lồ, v.v.
Trở về Nội Dung
HƯỚNG ÐẾN
GIÚP ÐỠ CÁC LINH HỒN
19
Hằng ngày, kẻ ấy đi ăn xin tại
Manresa
.
Kẻ ấy không ăn thịt, không uống rượu, mặc dầu
người ta cho. Các Chúa Nhật, kẻ ấy không ăn
chay, và nếu ai cho một chút rượu thì kẻ ấy
uống. Trước đây, chạy theo thời trang, kẻ ấy
từng rất lưu tâm chăm sóc mái tóc của mình, vốn
rất đẹp; nay kẻ ấy để mặc râu tóc mọc tự nhiên,
không chải, không cắt, để đầu trần cả ngày lẫn
đêm. Cũng vậy, kẻ ấy để móng chân móng tay tha
hồ mọc, vì trước kia từng chăm lo
quá
.
Trong thời gian ở nhà tế bần, nhiều lần giữa ban
ngày ban mặt, kẻ ấy thấy trong không khí, gần
mình, một điều gì đó đem lại cho mình nhiều an
ủi, vì nó tuyệt đẹp. Kẻ ấy chưa hiểu thực sự nó
là gì, nhưng phần nào kẻ ấy thấy nó có hình dạng
một con rắn, với nhiều điểm lấp lánh như những
con mắt, nhưng không phải mắt. Thấy nó, kẻ ấy
rất thích và được an ủi nhiều. Càng nhìn, kẻ ấy
càng được an ủi hơn, và khi nó biến đi, kẻ ấy
buồn
.
20
Cho đến lúc ấy, có thể nói là kẻ ấy lúc nào cũng
sống trong tình trạng nội tâm như trước, tức là
trong niềm vui mãnh liệt và liên tục, mà chưa
biết gì về đời sống nội tâm hay đời sống thiêng
liêng. Trong thời gian thấy hình ảnh ấy, hoặc ít
lâu trước khi nó bắt đầu xuất hiện, vì điều ấy
kéo dài nhiều ngày, một ý nghĩ dai dẳng quấy rầy
kẻ ấy là khó lòng sống được như vậy mãi. Làm như
có ai nói trong đáy lòng kẻ ấy: "Làm sao mi
chịu đựng nổi cuộc sống này suốt 70 năm còn
lại?"
Nhận ra đó là tiếng nói của
kẻ thù, kẻ ấy đáp lại rất mạnh mẽ trong lòng:
"Ồ! Ðồ khốn kiếp! Mày có hứa cho tao sống được
một giờ không ?" Thế là kẻ ấy thắng được cám
dỗ và lấy lại bình an
.
Ðây là cám dỗ đầu tiên đến với kẻ ấy sau điều đã
nói trên kia. Nó diễn ra đang khi kẻ ấy vào nhà
thờ, nơi hằng ngày kẻ ấy đến dự lễ hát, dự các
giờ kinh chiều và kinh tối, luôn luôn
hát
,
và kẻ ấy được an ủi nhiều. Lúc dự lễ, kẻ ấy
thường đọc Bài Thương Khó, tâm hồn lúc nào cũng
sốt sắng
.
21
Sau cám dỗ nói trên, kẻ ấy bắt đầu cảm thấy có
những thay đổi đáng kể trong tâm hồn. Ðôi khi kẻ
ấy cảm thấy khô khan nguội lạnh đến nỗi không
còn thú vị gì khi đọc kinh, dự lễ hay cầu nguyện
bất kỳ cách nào. Ðôi khi ngược hẳn lại, kẻ ấy
đột ngột có cảm tưởng tất cả buồn chán và sầu
khổ được cất đi như người ta tháo bỏ cái áo
choàng ra khỏi vai
.
Kẻ ấy ngạc nhiên về các thay đổi này, vì trước
khia chưa bao giờ trải qua, nên tự hỏi: "Mình
bắt đầu cuộc sống mới nào đây ?"
.
Trong thời gian này, đôi khi kẻ ấy trao đổi
với những người đạo đức kính trọng kẻ ấy và muốn
nói chuyện với kẻ ấy, vì mặc dầu không hiểu biết
gì các vấn đề của đời sống thiêng liêng, các lời
nói của kẻ ấy cho thấy kẻ ấy rất sốt sắng và
quyết tâm tiến tới trong việc phục vụ Thiên
Chúa.
Lúc ấy ở Manresa có một bà đã
cao tuổi, đã phục vụ Thiên Chúa từ lâu, được
nhiều người ở Tây Ban Nha nhìn nhận như vậy, đến
nỗi có lần vị Vua Công Giáo
đã mời bà đến để xin ý kiến
. Một hôm
người phụ nữ ấy nói chuyện với người lính mới
của Ðức Kitô
. Bà nói:
"Ôi, ước gì có ngày Chúa Giêsu Kitô hiện ra với
anh!" Rất ngạc nhiên và hiểu lời ấy
theo nghĩa đen, kẻ ấy đáp lại: "Ðời
nào Chúa Giêsu Kitô lại hiện ra với con!"
Kẻ ấy vẫn tiếp tục xưng tội và
rước lễ mỗi Chúa Nhật như thường
lệ
.
22
Ðến đây, kẻ ấy bắt đầu bị khuấy động mạnh vì các
bối rối. Mặc dầu ở Montserrat, kẻ ấy đã xưng tội
chung rất cẩn thận,
viết hết ra giấy như đã nói, đôi khi kẻ ấy thấy
như còn gì đó chưa xưng thú, nên bị dằn vặt
nhiều. Mặc dầu có xưng thú
hết rồi, kẻ ấy vẫn chưa yên lòng.
Vì vậy, kẻ ấy bắt đầu đi tìm
những người đạo đức để chữa trị bệnh bối rối.
Nhưng uổng công. Cuối
cùng, một người thông thái ở nhà thờ Chính Tòa
, một
người rất đạo đức, thường giảng ở nhà thờ ấy
một hôm, trong tòa giải tội, bảo kẻ ấy viết ra
tất cả những gì nhớ được
. Kẻ ấy
làm theo, nhưng sau
khi kẻ ấy xưng tội, các bối rối trở lại mỗi lần
một tinh vi hơn, nên kẻ ấy hết sức khổ tâm. Kẻ
ấy biết là các bối rối ấy làm hại mình nhiều,
nên phải xua đuổi đi, nhưng không sao xua đuổi
được
. Ðôi khi
kẻ ấy nghĩ là muốn chữa trị được, cha giải tội
phải nhân danh Chúa Giêsu ra lệnh cho kẻ ấy
không được xưng lại bất cứ điều gì trong quá khứ
nữa
.
Kẻ ấy mong nhận được lệnh
như vậy, nhưng không dám đề nghị với cha giải
tội.
23
Tuy nhiên, mặc dầu kẻ ấy không nói với cha giải
tội, ngài đã ra lệnh cho kẻ ấy không được trở
lại với quá khứ, trừ phi có gì rất rõ.
Khốn nỗi đối với kẻ ấy cái
gì cũng rất rõ, nên lệnh ấy chẳng đem lại ích
lợi nào. Day dứt vẫn
nguyên
.
Lúc ấy, trong một phòng nhỏ
các cha Ðaminh cho ở tại đan viện
, kẻ ấy
trung thành mỗi ngày quỳ gối cầu nguyện 7 giờ
, hôm nào
cũng thức dậy vào nửa đêm
, và làm
tất cả các việc đạo đức khác như đã nói
.
Dầu vậy, kẻ ấy không tìm ra
phương thuốc chữa trị bệnh bối rối đã hành hạ
mình từ mấy tháng rồi. Một lần, quá rời
rã, kẻ ấy đi cầu nguyện và tha thiết kêu gào
thật lớn với Thiên Chúa: "Lạy Chúa, xin cứu
con! Không còn ai, không còn thụ tạo nào cứu
chữa được con nữa. Nếu biết phải làm thế nào thì
khó khăn đến đâu con cũng làm. Lạy Chúa, xin cho
con biết phải tìm ở đâu. Dù có phải đi
theo một con chó con
để tìm được thuốc chữa trị, con cũng sẽ đi."
24
Trong lúc đang miên man với những ý tưởng ấy,
các cơn cám dỗ dồn dập tấn công, mãnh liệt thôi
thúc kẻ ấy lao mình vào một hố sâu trong phòng,
gần nơi kẻ ấy cầu nguyện
. Nhưng
biết tự tử là phạm tội, nên kẻ ấy lại kêu gào
lên: "Lạy Chúa, con nhất định không làm gì
xúc phạm đến Chúa!" Kẻ ấy lặp đi lặp lại
những lời này cũng như những lời trên kia nhiều
lần
.
Kẻ ấy nhớ đến chuyện một
vị thánh, vì muốn xin Chúa ban một ơn vị ấy rất
mong ước, nên đã nhịn đói nhiều ngày cho tới khi
nhận được
ơn
. Nghĩ đi
nghĩ lại, cuối cùng kẻ ấy quyết định cũng làm
như vậy: tự nhủ sẽ không
ăn không uống gì cho
tới khi Chúa giải cứu, hoặc thấy mình đã gần đất
xa trời. Vì nếu thấy mình bị nguy tử, nghĩa là
nếu không ăn thì
chẳng bao lâu nữa sẽ chết, kẻ ấy sẽ xin bánh mì
để ăn. Làm như lúc nguy tử còn xin và
ăn được!
25
Một hôm Chúa Nhật, sau khi rước lễ, kẻ ấy bắt
đầu nhịn đói. Suốt một tuần, không bỏ một miếng
gì vào miệng, nhưng kẻ ấy vẫn giữ các việc đạo
đức thường lệ như dự các giờ kinh thần vụ, quì
gối cầu nguyện, thức dậy nửa đêm v.v...
Chúa Nhật sau đó, kẻ ấy đi
xưng tội như thường làm. Vì vẫn quen
trình với cha giải tội chi li mọi điều mình làm,
nên kẻ ấy cũng cho cha biết suốt tuần chưa
ăn gì.
Cha giải tội ra lệnh cho kẻ
ấy chấm dứt việc nhịn đói.
Mặc dầu thấy mình vẫn khỏe,
kẻ ấy vâng lời cha.
Hôm ấy và hôm sau, kẻ ấy thấy mình thoát được
các bối rối. Nhưng đến hôm thứ ba, cũng
là ngày thứ ba trong tuần, đang lúc cầu nguyện,
kẻ ấy lại nhớ đến tội cũ, rồi từ chuyện này sang
chuyện nọ, kẻ ấy nghĩ hết tội này đến tội khác
trong đời sống quá khứ, và cảm thấy phải đi xưng
tội lại
. Nghĩ
mãi, kẻ ấy thấy mình hết sức chán ngán cuộc sống
đang theo đuổi và bị
cám dỗ bỏ cuộc rất mạnh. Chúa đã chọn cách ấy để
đánh thức kẻ ấy khỏi cơn mê. Lúc này đã có đôi
chút kinh nghiệm về các tác nhân, nhờ Chúa đã
dạy cho, nên kẻ ấy bắt đầu suy xét ý tưởng ấy đã
đến với mình thế nào
. Thế là
hoàn toàn sáng suốt, kẻ ấy quyết định không xưng
lại bất cứ tội cũ nào nữa.
Từ đó về sau, kẻ ấy được
giải thoát khỏi các bối rối. Chắc chắn
nhờ lòng từ bi của Chúa mà kẻ ấy đã được giải
thoát
.
26
Ngoài 7 giờ cầu nguyện, kẻ ấy dành thời giờ giúp
đỡ người khác
đến gặp mình về đời sống thiêng liêng. Tất cả
thời giờ còn lại, kẻ ấy dùng để suy nghĩ những
điều thuộc về Thiên Chúa, về những điều đã suy
niệm hay đã đọc trong ngày
. Nhưng
khi đi ngủ, kẻ ấy thường được soi sáng mãnh liệt
và được an
ủi mãnh liệt, khiến kẻ ấy mất một số giờ để ngủ
vốn đã chẳng nhiều nhặn gì. Sau khi suy đi nghĩ
lại nhiều lần, kẻ ấy tự nhủ đã ấn định giờ để
chuyện trò với Chúa rồi, lại còn những dịp khác
trong ngày nữa, nên tự hỏi không biết những ánh
sáng ấy có do thần lành không.
Cuối cùng kẻ ấy kết luận nên
gạt bỏ để đến giờ ngủ thì đi ngủ. Kẻ ấy
đã làm như vậy
.
27
Kẻ ấy vẫn không ăn
thịt. Ðã quyết định như vậy,
kẻ ấy không hề nghĩ đến việc thay đổi.
Ðến một buổi sáng kia, lúc vừa thức dậy, kẻ ấy
thấy thịt đã dọn sẵn để ăn, hình như thấy bằng
mắt thật, dù trước đó không hề thèm thịt. Ðồng
thời, kẻ ấy cảm thấy rất muốn từ đó về sau sẽ
ăn thịt. Mặc dầu vẫn
nhớ quyết định đã có trước, kẻ ấy không do dự,
nhưng quyết định phải ăn thịt.
Sau đó, kẻ ấy kể cho cha
giải tội biết, và cha bảo phải suy xét xem có
thể đó là một cám dỗ chăng. Nhưng sau khi
suy nghĩ đến nơi đến chốn, kẻ ấy không bao giờ
nghi ngờ chút nào
.
Thời ấy, Thiên Chúa đối xử với
kẻ ấy như một thầy giáo đối xử với một học trò:
Thiên Chúa dạy, kẻ ấy học
. Có thể
vì đầu óc kẻ ấy còn tối tăm, chậm chạp, cũng có
thể vì Thiên Chúa đã ban cho kẻ ấy lòng cương
quyết muốn phục vụ Người, dầu sao kẻ ấy thấy rõ,
và mãi mãi vẫn như thế, đó chính là cách Thiên
Chúa đối xử với mình.
Hơn nữa, nếu nghi ngờ, kẻ ấy
cảm thấy mình xúc phạm đến Thiên Chúa chí tôn.
Có thể thấy phần nào qua năm điểm sau
đây
.
28
Một. Kẻ ấy rất sùng kính Ba Ngôi Chí Thánh. Mỗi
ngày kẻ ấy cầu nguyện với Ba Ngôi riêng
rẽ
. Vì kẻ ấy
vẫn cầu nguyện với
chung cả Ba Ngôi Chí Thánh, nên tự hỏi
sao lại cầu nguyện bốn lần với Ba Ngôi. Nhưng ý
tưởng ấy chẳng quan trọng mấy nên không làm kẻ
ấy băn khoăn bao nhiêu.
Một hôm, đang đọc các giờ kinh
kính Ðức Mẹ ở tam cấp đan viện
, trí hiểu
kẻ ấy được nhấc bổng lên như thể thấy được Ba
Ngôi Chí Thánh dưới dạng ba phím đàn
. Nước mắt
trào ra
, kẻ ấy
thổn thức không sao kìm hãm được. Sáng hôm ấy,
tham dự một buổi rước kiệu khởi hành từ đan
viện, kẻ ấy không sao cầm được nước mắt mãi cho
đến bữa ăn trưa. Sau
bữa ăn, không gì ngăn cản được kẻ ấy nói về Ba
Ngôi Chí Thánh, trong lòng đầy niềm vui và an
ủi, dùng nhiều thí dụ khác nhau để diễn tả. Kẻ
ấy còn giữ ấn tượng này suốt đời, nên hễ cầu
nguyện với Ba Ngôi Chi Thánh kẻ ấy bắt đầu cảm
thấy rất sốt sắng
.
29
Hai. Một hôm, kẻ ấy được cho thấy trong tâm trí,
với niềm vui thiêng liêng lớn
lao, cách thức Thiên
Chúa đã sáng tạo thế giới. Làm như kẻ ấy thấy
một vật thể trắng phát ra những tia sáng và
Thiên Chúa làm thành ánh
sáng
. Nhưng kẻ
ấy không biết giải thích thế nào, mà cũng không
nhớ rõ lắm những hiểu biết thiêng liêng Thiên
Chúa ghi tạc trong linh hồn kẻ ấy lúc bấy
giờ
.
Ba.
Vẫn tại Manresa, kẻ ấy ở đó gần một năm, sau khi
được Thiên Chúa an ủi và thấy hoa trái trổ sinh
khi gặp gỡ tha nhân
, kẻ ấy từ
bỏ những điều thái quá trước kia đã thực hành,
nên từ đây cắt móng chân móng tay và hớt tóc
.
Mặt khác, vẫn tại đó, một hôm
đang dự lễ trong nhà thờ của đan viện, vào lúc
dâng Mình Thánh, kẻ ấy thấy, bằng con mắt nội
tâm, những tia sáng trắng từ trên cao chiếu
xuống.
Mặc dầu đến nay đã nhiều
năm, kẻ ấy vẫn chưa giải thích được điều này.
Tuy nhiên, kẻ ấy thấy rõ ràng, bằng tâm trí,
Chúa Giêsu Kitô ở trong bí tích Thánh Thể thế
nào
.
Bốn. Trong
lúc cầu nguyện, kẻ ấy thường nhìn thấy trong một
lúc lâu, bằng con mắt nội tâm, nhân tính của Ðức
Kitô.
Kẻ ấy thấy như một vật thể
trắng, không lớn lắm cũng không nhỏ lắm, nhưng
kẻ ấy không phân biệt được các phần thân thể.
Kẻ ấy thấy như vậy ở Manresa
rất thường xuyên. Nếu
nói là 20 hay 40 lần, kẻ ấy ấy không nghĩ là nói
dối. Kẻ ấy cũng thấy như vậy một lần ở
Giêrusalem và một lần khác khi đang ở
Padova
.
Kẻ ấy cũng thấy Ðức Mẹ, với
hình dạng tương tự, không phân biệt được các
phần thân thể. Các thị kiến này củng cố
và nâng đỡ đức tin của kẻ ấy rất nhiều, đến nỗi
kẻ ấy vẫn thường tự nhủ: Giả như không có
Kinh Thánh dạy chúng ta các chân lý đức tin ấy,
thì chỉ cần căn cứ vào những điều đã thấy, kẻ ấy
vẫn sẵn lòng chết vì các chân lý ấy .
30
Năm. Một hôm, do lòng sùng kính, kẻ ấy đang trên
đường đến một nhà thờ cách Manresa chừng hơn một
dặm, tôi nghĩ là nhà thờ Thánh
Phaolô
. Con
đường men theo bờ
sông. Lòng đầy sốt sắng, kẻ
ấy ngồi xuống một chút, nhìn xuống dòng sông
chảy bên dưới. Ðang
lúc ngồi đó, mắt tâm trí kẻ ấy bắt đầu mở ra.
Ðó không phải là một thị
kiến, nhưng kẻ ấy hiểu và biết được nhiều điều,
cả những điều thuộc bình diện thiêng liêng cũng
như những điều thuộc lãnh vực đức tin và kiến
thức. Việc ấy diễn ra sáng tỏ đến nỗi đối
với kẻ ấy mọi sự đều như mới mẻ.
Không sao nói rõ các chi
tiết trong những điều kẻ ấy hiểu được lúc ấy, vì
rất nhiều. Tuy nhiên, có thể khẳng định
là tâm trí kẻ ấy được soi sáng đến nỗi suốt đời,
đến nay đã 62 năm, nếu kẻ ấy gom lại tất cả
những trợ giúp đã nhận được từ Thiên Chúa và mọi
điều kẻ ấy biết được, cộng chung lại, kẻ ấy
không nghĩ là bằng những gì đã nhận được chỉ một
lần ấy. Ðiều ấy để lại trong tâm hồn Cha
một ánh sáng mạnh đến nỗi Cha thấy mình như trở
thành một người khác, có một trí khôn khác với
trí khôn đã có trước đó.
31
Việc ấy diễn ra khá lâu. Sau
đó kẻ ấy đến quì gối trước một Thánh Giá gần đó
để tạ ơn Thiên Chúa.
Chính tại đó, kẻ ấy thấy thị
kiến trước đây đã thấy nhiều lần mà chưa bao giờ
hiểu, tức là điều đã nói trên kia, vật thể có vẻ
rất đẹp và có nhiều mắt
.
Nhưng trước Thánh Giá, kẻ ấy
thấy rõ nó không có màu đẹp như trước, và hiểu
rất rõ, hoàn toàn phù hợp với ý chí, đó là ma
quỉ. Về sau, nó còn xuất hiện nhiều lần
nữa, và lâu, nhưng kẻ ấy dùng cái gậy vẫn thường
cầm trong tay để đuổi nó với vẻ khinh
bỉ
.
32
Trong một cơn bệnh tại Manresa, kẻ ấy bị sốt
nặng đến nỗi tưởng không sao qua khỏi được. Kẻ
ấy cầm chắc là linh hồn sắp lìa khỏi
xác
.
Lúc ấy, ý tưởng này đến
trong tâm trí kẻ ấy là mình được kể vào số những
người công chính, nhưng điều này làm cho kẻ ấy
rất buồn, nên làm hết cách để xua đuổi và nhớ
lại các tội cũ. Ý tưởng này làm cho kẻ ấy
mệt hơn cả cơn sốt nữa. Nhưng làm đủ mọi thứ vẫn
không sao xua đuổi được
. Khi cơn
sốt hạ, thấy mình không còn trong cơn nguy tử
nữa, kẻ ấy lớn tiếng gọi mấy của phụ nữ đến thăm
và dặn lần sau nếu thấy kẻ ấy sắp chết, vì lòng
yêu mến Chúa, các bà phải hét lớn lên kẻ ấy là
người tội lỗi, và nhắc kẻ ấy nhớ đến những tội
lỗi đã phạm mất lòng Chúa.
33
Trong một dịp khác, khi đi tàu thủy từ Valencia
sang Ý
, gặp cơn
bão lớn, bánh lái tàu bị gãy.
Tình trạng nguy kịch đến nỗi
kẻ ấy cũng như nhiều người khác trên tàu cho
rằng chỉ với những phương tiện tự nhiên thì
không sao thoát chết được. Chính lúc ấy,
khi xét mình cẩn thận để dọn mình chết, kẻ ấy
không cảm thấy sợ vì tội lỗi hay hình phạt,
nhưng cảm thấy hối tiếc và đau đớn nhiều vì thấy
mình đã không sử dụng các tặng phẩm và
ân huệ Chúa ban.
Một lần khác, vào năm
1550, kẻ ấy đau nặng vì một cơn bệnh trầm trọng
mà chính kẻ ấy và nhiều người khác nghĩ là cơn
bệnh cuối
cùng
.
Vào giây phút ấy, khi nghĩ đến cái chết, kẻ ấy
cảm thấy hân hoan và an
ủi thiêng liêng với ý nghĩ mình sắp chết đến nỗi
bật khóc. Việc này xảy đến thường xuyên, nên kẻ
ấy phải tránh nghĩ đến cái chết để khỏi mừng rỡ
quá
.
34
Khi mùa đông đến, kẻ ấy ngã bệnh nặng. Ðể chăm
sóc, làng cho kẻ ấy đến ở nhà cha của một người
tên là Ferrera, sau này sẽ giúp việc cho ông
Baltasar da Faria
.
Ở đó, kẻ ấy được chăm sóc chu đáo và nhiều phụ
nữ nổi tiếng quí mến nên đến canh suốt
đêm
.
Kẻ ấy bình phục nhưng vẫn
yếu và thường đau dạ dày.
Vì tình trạng của kẻ ấy và
vì mùa đông rất khắc nghiệt, các bà cho kẻ ấy
mặc quần áo đầy đủ, mang giày và đội mũ.
Họ bắt kẻ ấy phải nhận hai chiếc áo ngoài màu
nâu, bằng vải rất thô, và một cái mũ nồi cũng
bằng thứ vải ấy
.
Trong
thời gian ấy, nhiều ngày kẻ ấy rất ước ao tìm
được những người có khả năng để nói chuyện với
họ về đời sống thiêng liêng. Nhưng sắp
đến lúc phải lên đường đi Giêrusalem
rồi
.
35
Ðầu năm 1523
,
kẻ ấy lên đường
đi Barcelona
để xuống tàu thủy.
Mặc dầu một số người muốn tháp tùng, kẻ ấy chỉ
muốn đi một mình, vì ước ao chỉ cậy dựa vào
Thiên Chúa.
Một hôm, những người thân hối thúc kẻ ấy phải có
ai đồng hành: đây là điều rất hữu ích vì kẻ ấy
không biết tiếng Ý, cũng chẳng biết tiếng
Latinh
. Họ đề nghị một người,
nhưng kẻ ấy trả lời là cho dầu con hay em của
công tước xứ Cardona
kẻ ấy cũng không chịu cho cùng đi, vì muốn sống
các nhân đức mến, tin và cậy
.
Nếu có một người cùng đi,
khi đói sẽ chờ mong người ấy giúp đỡ, khi ngã sẽ
chờ mong người ấy nâng dậy.
Kết quả là sẽ đặt tin tưởng
nơi người ấy và quí mến người ấy. Phần
mình, kẻ ấy muốn chỉ đặt trọn tin tưởng, yêu mến
và hi vọng nơi một mình Thiên Chúa thôi.
Từ đáy lòng mình, kẻ ấy nghĩ
sao nói vậy.
Với ước nguyện ấy, chẳng
những kẻ ấy muốn đi tàu một mình, mà cả đến
không mang
theo lương thực chi
hết. Kẻ ấy xin được chủ tàu cho đi miễn phí, vì
không có tiền, nhưng chủ tàu đòi kẻ ấy phải mang
theo bánh mì khô đủ
ăn suốt chuyến đi. Nếu vì bất cứ lý do nào mà
không đủ thì không được đi.
36
Ðang khi đi kiếm bánh mì khô, kẻ ấy bắt đầu cảm
thấy rất bối rối: "Thế là trông cậy và tin
tưởng Thiên Chúa không phụ mi sao?
Vân vân."
Ý tưởng này rất mạnh, nên kẻ
ấy day dứt. Cuối cùng, chẳng biết phải
làm thế nào, vì bên tám lạng bên nửa cân, kẻ ấy
xin ý kiến của cha giải tội
.
Kẻ ấy cho cha biết mình rất ước ao
theo con đường hoàn
thiện và theo điều nào tôn vinh Thiên Chúa hơn,
rồi đến những điều khiến kẻ ấy do dự mang theo
lương thực. Cha giải tội quyết định là kẻ ấy
phải xin những điều cần thiết và mang
theo.
Kẻ
ấy đến xin một phụ nữ.
Bà này hỏi kẻ ấy đáp tàu đi
đâu. Kẻ ấy do dự đôi chút, không biết có
nên nói không. Cuối cùng, kẻ
ấy không dám nói hơn, chỉ nói là dự tính đi Ý và
Rôma. Bà ấy sửng sốt nói với kẻ ấy:
"Anh muốn đi Rôma à? Ai đến
đó khi về chẳng biết có được gì không."
Bà ấy muốn nói là đi
Rôma chẳng có lợi ích thiêng liêng bao nhiêu.
Kẻ ấy không dám nói là mình đi Giêrusalem, vì sợ
cám dỗ hư vinh
.
Nỗi sợ này cũng khiến cho kẻ ấy không bao giờ
dám nói về quê quán và gia đình
mình
.
Cuối cùng, khi đã có bánh mì
khô, kẻ ấy vào tàu. Ðặt chân xuống tàu,
kẻ ấy thấy mình vẫn còn giữ 5 hay 6 đồng
blancas
,
số tiền còn lại do những gì đã hành khất
được từ nhà này sang nhà khác, vì đó là cách
thức kẻ ấy dùng làm kế sinh nhai, nên kẻ ấy bỏ
lại những đồng tiền trên một chiếc ghế dài ở gần
bờ biển
.
37
Kẻ ấy xuống tàu
sau khi đã ở Barcelona hơn 20 ngày một chút.
Khi còn ở Barcelona, trước
lúc xuống tàu, kẻ ấy giữ thói quen tìm kiếm
những người đạo đức để nói chuyện với họ, thậm
chí thăm cả những người ở trong các ẩn viện xa
thành phố. Tuy nhiên, cả tại Barcelona
cũng như tại Manresa, trong suốt thời gian ở đó,
kẻ ấy không tìm được ai có thể giúp đỡ mình như
lòng mong ước, trừ người phụ nữ ở Manresa đã nói
trên kia, người đã nói với kẻ ấy là bà cầu xin
Thiên Chúa để Chúa Giêsu Kitô hiện ra với kẻ
ấy
.
Theo kẻ ấy xét thì chỉ mình
bà ấy đã tiến xa nhất trên đường thiêng liêng.
Vì thế, sau khi rời Barcelona, kẻ ấy hoàn toàn
không băn khoăn đi tìm những người đạo đức
nữa
.
38
Nhờ gió xuôi và mạnh, hành trình từ Barcelona
đến Gaeta
mất năm ngày năm đêm, ai cũng rất sợ vì bão dữ
dội.
Khắp trong vùng, người
ta đang sợ bệnh dịch
hạch
.
Tuy nhiên, vừa lên bờ, kẻ ấy
liền khởi hành đi bộ về hướng Rôma.
Trong số các hành khách cùng
đi trên tàu với kẻ ấy, có một phụ nữ cùng với cô
con gái, mặc quần áo con trai, và một thanh niên
cùng đi với kẻ ấy. Họ
theo kẻ ấy vì họ cũng xin ăn trên đường.
Ðến một nông trại, họ thấy
có một đống lửa lớn và nhiều binh sĩ vây quanh.
Những người này cho họ ăn
và cho cả nhiều rượu, lại ép họ uống như thể
muốn họ say. Rồi họ chia tay:
hai mẹ con lên phòng trên gác, kẻ hành hương và
anh thanh niên ra chuồng ngựa.
Khoảng nửa đêm, kẻ ấy nghe
từ trên gác có tiếng la hét lớn, nên dậy để xem
chuyện gì xảy ra. Kẻ ấy thấy hai mẹ con
đang khóc nức nở trong sân nhà dưới và than
phiền là những người lính định hãm hiếp họ. Kẻ
ấy đùng đùng nổi giận và la lớn: "Có ai chịu
nổi không?" và những điều tương tự, khiến
mọi người ở nhà ấy đều sợ và không ai đụng chạm
gì đến kẻ ấy. Anh thanh niên đã trốn mất, nên ba
người tiếp tục lên đường, ngay trong đêm
tối
.
39
Khi đến một thành phố gần đó, họ thấy cổng đóng,
không vào được, nên cả ba qua đêm ở ngoài thành
phố, trong một nhà thờ ngập nước vì trời
mưa
.
Khi trời sáng, họ không được vào thành,
mà ở ngoài thì không xin bố thí được, nên họ đến
một lâu đài không cách xa lắm.
Ðến nơi, kẻ hành hương mệt lả, hậu quả chuyến
vượt biển và những điều khác. Không đi
tiếp được nữa, kẻ ấy ở lại đó, trong khi hai mẹ
con kia lên đường đi
Rôma. Hôm ấy, có nhiều người
ra ngoài thành. Ðược tin đệ nhất phu nhân
khu vực
cũng ra ngoài, kẻ ấy tìm đến gặp bà,
trình bày với bà là mình chỉ kiệt sức thôi, và
xin phép bà cho vào trong làng để tìm ai giúp
đỡ.
Bà cho phép ngay. Kẻ
ấy hành khất trong làng và nhận được khá nhiều
đồng quattrini
.
Sau hai ngày, thấy đã khỏe lại, kẻ ấy tiếp tục
hành trình và đến Rôma vào Chúa Nhật Lễ
Lá
.
40
Ai nói chuyện với kẻ ấy ở Rôma cũng biết là kẻ
ấy không có tiền để đi Giêrusalem, nên cố khuyên
kẻ ấy đừng đi. Họ nêu đủ thứ lý do để kẻ ấy biết
là không có tiền thì không sao đi được.
Nhưng không phân vân chi
hết, kẻ ấy xác tín trong lòng là sẽ tìm ra cách
để đi Giêrusalem.
Sau khi nhận phép lành
của Ðức Thánh Cha Ađrianô VI
,
kẻ ấy lên đường đi Venezia
,
khoảng 8 hay 9 ngày sau lễ Phục Sinh
.
Kẻ ấy cũng mang theo
6 hay 7 đồng ducats
người ta đã cho để đi từ Venezia đến Giêrusalem.
Kẻ ấy đã nhận phần nào vì sợ: người ta nói chắc
như đinh đóng cột là không có cách nào khác.
Nhưng đi khỏi Rôma được hai ngày, kẻ ấy nhận ra
mình đã thiếu lòng tin tưởng nơi Chúa, và việc
bọc theo những đồng
ducats làm cho kẻ ấy áy náy, nên kẻ ấy nghĩ là
bỏ đi thì hơn. Cuối cùng kẻ
ấy quyết định phân phát rộng rãi cho những người
gặp trên đường, mà thường là người nghèo.
Kẻ ấy thực hiện như vậy nên
khi đến Venezia chỉ còn trong người mấy đồng
quattrini cần cho đêm hôm ấy.
41
Trong chuyến đi Venezia, vì có những biện pháp
phòng chống bệnh dịch hạch, kẻ ấy phải ngủ ở các
cổng thành. Một buổi sáng thức dậy, kẻ ấy chạm
trán với một người qua đường: vừa thấy kẻ ấy,
người kia bỏ chạy như
bị ma đuổi. Chắc mặt kẻ ấy phải nhợt nhạt
lắm
.
Tiếp tục hành trình, kẻ ấy đến
Chioggia
.
Những người cùng đi với kẻ
ấy cho biết không được phép vào Venezia.
Những người kia quyết
định đi Padova
để xin giấy chứng nhận sức khỏe tốt, kẻ ấy cùng
đi với họ. Nhưng kẻ ấy không
theo kịp họ, vì họ đi rất nhanh.
Ðêm xuống, họ bỏ kẻ ấy giữa
cánh đồng. Ðang lúc kẻ ấy ở đó, Chúa Kitô
hiện ra với kẻ ấy theo cách thức Chúa vẫn thường
hiện ra với kẻ ấy, như đã mô tả trên
kia
.
Việc này nâng đỡ kẻ ấy rất
nhiều. Ðược an ủi như vậy, sáng hôm sau
kẻ ấy đến cổng thành Padova, chẳng cần làm giả
giấy chứng nhận, (tôi nghĩ vậy) như những người
cùng đi hôm trước, kẻ ấy vào thành mà những
người kiểm soát chẳng hỏi han gì.
Khi ra cũng vậy.
Những người cùng đi hết sức
ngạc nhiên. Họ đã lo
được giấy chứng nhận để đi Venezia, còn kẻ ấy
chẳng lo chi cả.
42
Khi họ đến Venezia
,
những người kiểm soát đến xét mọi người
trên thuyền, từng người một, từ người đầu đến
người cuối. Chỉ một mình kẻ
ấy là họ bỏ qua. Tại Venezia, kẻ ấy vẫn
đi xin ăn, và ngủ ở quảng trường Thánh Marcô. Kẻ
ấy không hề muốn đến Tòa Sứ Thần của Hoàng
Ðế
,
cũng chẳng bận tâm lắm để kiếm tàu đi biển.
Kẻ ấy bụng bảo dạ cứ vững
tin là Thiên Chúa sẽ liệu cho mình có phương
tiện đến Giêrusalem. Ðiều này làm cho
quyết tâm của kẻ ấy càng thêm mạnh mẽ, nên không
lý luận nào, không đe dọa nào của ai làm cho kẻ
ấy nao núng
.
Một hôm, có một người
Tây Ban Nha giàu sang gặp kẻ ấy và hỏi đang làm
gì và muốn đi đâu. Biết được dự tính của kẻ ấy,
người Tây Ban Nha kia dẫn kẻ ấy về nhà, cho ăn
uống, giữ lại mấy ngày cho tới khi chuyến đi
được xếp đặt chu đáo.
Từ ngày còn ở Manresa, kẻ
hành hương có thói quen không bao giờ nói gì với
người khác trong bữa ăn, trừ những câu trả lời
ngắn gọn. Kẻ ấy lắng
nghe tất cả những gì người khác nói và ghi nhận
trong tâm trí một số điều sau này vận dụng để
nói về Thiên Chúa.
Sau bữa ăn, kẻ ấy thực hiện điều ấy.
43
Vì vậy, người tốt bụng kia
và cả nhà rất quí mến kẻ ấy, muốn kẻ ấy ở lại
với họ, và cố gắng nài ép kẻ ấy ở lại.
Ông chủ dẫn kẻ ấy đến gặp
viên Công tước
của Venezia để kẻ ấy nói chuyện với vị
ấy, hay đúng hơn để kẻ ấy đến cho vị ấy gặp.
Vị này nghe kẻ hành hương nói và chỉ thị cho kẻ
ấy được xuống tàu đưa các thống đốc sang đảo
Sýp
.
Mặc dầu năm ấy có nhiều người
hành hương muốn đi Giêrusalem, nhưng hầu hết đã
trở về quê, vì đảo Rhodes mới bị
chiếm
. Dầu vậy, vẫn có 13 người trên tàu
hành hương; tàu này khởi hành trước
, còn 8 hay 9 người khác
trên tàu các thống đốc. Tàu này đang chuẩn bị
nhổ neo thì kẻ hành hương bị cơn sốt rất cao
hành hạ mấy ngày mới hết.
Tàu khởi hành
đúng hôm kẻ ấy uống thuốc xổ. Những người
chủ hỏi thầy thuốc xem kẻ ấy có thể đáp tàu đi
Giêrusalem được không, và thầy thuốc trả lời là
nếu kẻ ấy muốn đến Giêrusalem để được chôn tại
đó, thì chắc chắn là được.
Dầu vậy, kẻ ấy cứ xuống tàu hôm ấy.
Khi tàu khởi hành, kẻ ấy nôn
thốc nôn tháo, nhưng thấy bớt, và tàu đi được ít
lâu thì kẻ ấy khỏe hẳn lại.
Trên tàu,
một số người công khai làm điều dâm ô và tồi
bại, và bị kẻ ấy quở trách nghiêm khắc.
44
Những người Tây Ban Nha trên tàu khuyên kẻ ấy
đừng nói gì, vì những người trong đoàn thủy thủ
đã bàn đến việc bỏ kẻ ấy trên một hòn đảo nào
đó. Nhưng Chúa đã cho họ sớm
đến đảo Sýp. Họ rời tàu ấy, hành khách đi
đường bộ đến một cảng khác gọi là Las
Salinas
,
cách đó chừng 10 dặm. Tại đó họ xuống tàu hành
hương và kẻ ấy không mang theo lương thực nào
ngoài lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa, như kẻ ấy
đã làm trên chiếc tàu kia
.
Trong thời gian này, Chúa
Giêsu nhiều lần hiện ra với kẻ ấy, làm cho kẻ ấy
rất hăng hái và phấn khởi. Làm như kẻ ấy
nhìn thấy một vật thể tròn và lớn, hình như bằng
vàng; kẻ ấy thấy như vậy từ khi rời đảo Sýp đến
khi họ tới Jaffa
.
Họ cỡi những con lừa nhỏ đi Giêrusalem. Khi còn
cách Giêrusalem chừng 2 dặm, theo thông lệ, một
người Tây Ban Nha, có vẻ là một người quí tộc,
tên là Diego Manes, sốt sắng đề nghị những người
hành hương vì sắp đến điểm họ nhìn thấy Thành
Thánh, mọi người nên chuẩn bị tâm hồn và thinh
lặng tiến bước.
45
Mọi người cho đó là ý hay, nên ai cũng cầm lòng
cầm trí. Một chút trước khi
có thể nhìn thấy Thành, họ xuống lừa vì thấy có
các tu sĩ mang Thánh Giá chờ đón họ.
Khi thấy Thành, kẻ hành
hương rất phấn khởi, và mọi người khác cũng cảm
thấy như vậy. Họ cho
biết là họ cảm nhận một niềm vui không hẳn là tự
nhiên. Kẻ ấy cũng cảm thấy sốt sắng như
vậy trong tất cả những lần kẻ ấy viếng các Nơi
Thánh
.
Kẻ ấy
quyết tâm ở lại Giêrusalem để thường xuyên viếng
các Nơi Thánh.
Ngoài ước muốn đạo đức này, kẻ ấy cũng có ý định
giúp đỡ các linh hồn
.
Chính vì thế, kẻ ấy mang
theo các thư giới thiệu gởi cha tu viện
trưởng. Trao thư cho
cha, kẻ ấy bày tỏ ý định ở lại đó vì lòng sùng
mộ, nhưng không nói gì về ước nguyện kia, tức là
giúp đỡ các linh hồn. Kẻ ấy
thường nói công khai với người khác về ý định ở
lại, nhưng không ai biết về ước nguyện sau.
Cha tu viện trưởng trả lời là cha ấy không hiểu
người ấy ở lại thế nào, vì tu viện đang thiếu
thốn, không đủ nuôi các tu sĩ, do đó cha ấy đã
phải quyết định gởi một số anh em về Châu Âu
cùng với đoàn hành hương. Kẻ
hành hương trả lời là kẻ ấy không chờ đợi gì nơi
tu viện, chỉ thỉnh thoảng đến xưng tội thì xin
giải tội cho thôi. Cha tu viện trưởng nói
nếu như vậy thì được, nhưng phải đợi cha giám
tỉnh đến (theo tôi
nghĩ đó là vị bề trên thượng cấp của Dòng tại
Ðất Thánh), lúc ấy ngài đang ở Bêlem.
46
Lời hứa ấy làm cho kẻ hành hương vững tâm nên
bắt đầu viết thư cho
những người đạo đức ở Barcelona.
Kẻ ấy đã viết xong một lá,
và đang viết lá thứ hai, vào hôm trước ngày đoàn
hành hương lên đường, thì có người đến gọi đi
gặp cha giám tỉnh, đã đến rồi, và cha tu viện
trưởng.
Một cách tử tế, cha giám tỉnh
nói với kẻ ấy rằng cha đã biết kẻ ấy có ý ở lại
Ðất Thánh, đó là điều tốt, nhưng ngài đã suy
nghĩ cẩn thận, và theo kinh nghiệm về các trường
hợp tương tự, ngài xét là không thích hợp.
Nhiều người cũng đã có ước nguyện như vậy, nhưng
người thì bị bắt, người thì bị giết.
Rồi nhà dòng phải chuộc
những người bị bắt.
Vì thế kẻ ấy phải chuẩn bị hôm sau lên đường
cùng với đoàn hành hương.
Kẻ ấy trả lời là mình đã
nhất quyết rồi, không có điều gì trên đời này
ngăn cản được. Một
cách nhã nhặn, kẻ ấy cho biết mặc dầu cha ấy
không ủng hộ, chẳng có gì làm cho kẻ ấy sợ mà
phải từ bỏ quyết định, trừ khi bị buộc thành
tội. Ðến đây, cha giám tỉnh nói các cha
được Tòa Thánh trao quyền tùy ý buộc ai đi, cho
ai ở, và có quyền ra vạ tuyệt thông bất kỳ ai
không vâng lời. Riêng trường hợp này, các cha
xét là không được ở lại v.v...
47
Cha ấy muốn lấy các trọng sắc của Tòa Thánh trao
quyền ra vạ tuyệt thông cho kẻ ấy xem nữa, nhưng
kẻ hành hương trả lời là không cần, vì kẻ ấy tin
các cha, và vì các cha đã quyết định như vậy
theo quyền các cha có, thì kẻ ấy vâng lời.
Xong chuyện này, kẻ ấy trở
về nơi trọ. Vì ý Chúa không muốn cho mình
ở lại trên Ðất Thánh
,
kẻ ấy bừng cháy ước nguyện trở lại viếng núi
Ôliu lần nữa trước khi ra về.
Ở núi Ôliu có một phiến đá
Chúa Giêsu đã đứng trên đó trước khi lên trời,
và ngày nay người ta còn thấy dấu vết hai bàn
chân Chúa. Ðó là điều kẻ ấy muốn xem
lại
.
Thế là chẳng nói chẳng rằng,
cũng không có người hướng dẫn, (mà đi đâu không
có người Thổ Nhĩ Kỳ hướng dẫn thì rất nguy
hiểm), kẻ ấy lẻn đoàn ra đi một mình lên núi
Ôliu. Các người bảo vệ không chịu cho kẻ
ấy vào, nên kẻ ấy cho họ một con dao xếp mang
theo trong người. Sau
khi đã cầu nguyện với lòng tràn ngập an ủi, kẻ
ấy muốn đi Betphaghê
.
Ðến nơi, kẻ ấy mới nhớ là trên núi Ôliu, kẻ ấy
chưa để ý bàn chân phải của Chúa quay về hướng
nào
.
Kẻ ấy quay lại và cho những
người bảo vệ cái kéo, tôi nghĩ vậy, để họ cho
vào.
48
Ở đan viện, khi biết là kẻ ấy đã ra ngoài mà
không có ai hướng dẫn, các tu sĩ cho người đi
tìm. Lúc kẻ ấy đang ở trên núi Ôliu xuống
thì chạm trán một Kitô hữu thắt
đai
giúp việc tu viện. Anh
ta cầm một cây gậy lớn, vẻ mặt hằm hằm, làm như
muốn đánh đập kẻ ấy. Lên đến nơi, anh ta
chộp thật mạnh cánh tay
kẻ ấy. Kẻ hành hương để yên cho anh ta dẫn đi,
nhưng anh chàng không chịu buông
tay ra. Trên đường,
trong khi bị anh chàng Kitô hữu thắt đai
giữ chặt, kẻ ấy được Chúa ban ơn an ủi mãnh liệt
vì suốt quãng đường làm như kẻ ấy lúc nào cũng
thấy Chúa Giêsu ở phía trên. Ơn an ủi này vẫn
mãnh liệt cho tới khi kẻ ấy về đến tu
viện
.
49
Hôm sau, đoàn hành hương lên
đường
.
Ðến đảo Sýp
,
các người hành hương phải tách ra, nhóm đi tàu
này, nhóm đi tàu khác. Ở cảng, có 3 hay 4 tàu đi
Venezia: một chiếc của người Thổ Nhĩ Kỳ, một
chiếc khác rất nhỏ, và chiếc thứ ba vừa sang
trọng vừa oai vệ, của một người Venezia giàu có.
Một số người hành hương xin
chủ tàu này cho kẻ hành hương đi, nhưng khi biết
kẻ ấy không có tiền, thì không chịu.
Nhiều người ca ngợi kẻ ấy và
xin cho kẻ ấy. Chủ tàu trả lời là nếu kẻ
ấy là một vị thánh thì cứ vượt biển như thánh
Giacôbê đã làm, hoặc điều gì tương
tự
.
Những người kia dễ
dàng xin được người chủ chiếc tàu nhỏ cho kẻ ấy
đi. Ðoàn tàu khởi hành cùng một ngày, vào một
buổi sáng, khi có gió thuận.
Nhưng đến chiều, có bão nổi lên, và các tàu tách
xa nhau. Chiếc tàu
lớn bị đắm ngoài khơi đảo Sýp, chỉ các hành
khách thoát nạn.
Trong khi ấy, chiếc tàu của người Thổ Nhĩ Kỳ và
toàn bộ hành khách bị đắm cũng trong cơn bão ấy.
Chiếc tàu nhỏ gặp nhiều khó khăn, nhưng cuối
cùng cập bến tại Pulia
.
Lúc ấy mùa đông đang ở thời điểm tệ hại nhất:
tuyết rơi, thời tiết băng giá. Kẻ hành hương
không có quần áo nào khác ngoài một cái quần
bằng vải thô dài đến đầu gối, hai bắp chân để
trần, đôi giày, một áo ngắn bằng vải đen, hai
vai rách bươm, và chiếc áo choàng ngắn đã sờn.
50
Kẻ ấy đến Venezia vào giữa tháng Giêng năm 1524,
sau khi lênh đênh trên biển trọn tháng 11, tháng
12 và nửa tháng Giêng, kể từ khi rời đảo Sýp.
Tại Venezia, kẻ ấy gặp lại một trong hai người
từng đón tiếp mình tại nhà họ trước khi kẻ ấy đi
Giêrusalem. Ông này bố thí cho kẻ ấy 15 hay 16
đồng giulii và một miếng vải mà kẻ ấy dùng để
quấn mấy vòng quanh bụng vì trời rất
lạnh
.
Từ khi nhận ra ý Chúa không
muốn mình ở lại Giêrusalem, kẻ hành hương thường
xuyên tự hỏi
phải làm gì
.
Cuối cùng, kẻ ấy cảm thấy nên dành thời gian học
hành để có thể giúp đỡ các linh hồn, nên kẻ ấy
quyết định đi Barcelona
.
Thế là kẻ ấy rời Venezia đi
Genova
.
Một hôm, đang ở trong nhà thờ lớn tại
Ferrara
, sau khi
kẻ ấy đã làm các việc đạo đức, có một người
nghèo đến xin bố thí, kẻ ấy cho một đồng
marchetto, trị giá 5 hay 6 quattrini.
Rồi một người nghèo khác đến
xin, kẻ ấy cho một đồng tiền mệnh giá lớn hơn.
Rồi người thứ ba đến xin, kẻ
ấy chỉ còn những đồng giulii, nên cho một đồng
giulio. Những người
nghèo thấy kẻ ấy bố thí nên kéo nhau đến xin,
mãi đến khi kẻ ấy cho hết sạch. Cuối cùng
kẻ ấy xin lỗi họ vì chẳng còn gì để cho
nữa
.
51
Rồi kẻ ấy rời Ferrara đi Genova.
Trên đường, kẻ ấy gặp mấy
người lính Tây Ban Nha và đêm hôm ấy được họ đối
xử tử tế. Họ ngạc nhiên thấy kẻ ấy đi
đường ấy, vì sẽ băng qua gần như chính giữa quân
đội Pháp và quân đội của Hoàng
Ðế
.
Họ đề nghị kẻ ấy bỏ đường chính, và chỉ cho kẻ
ấy đường khác an toàn hơn, nhưng kẻ ấy không
chịu nghe lời họ khuyên
.
Cứ thẳng đường mà đi, kẻ ấy
đến một làng bị thiêu hủy và phá hủy, nên đến
chiều vẫn chưa có ai cho gì ăn. Lúc mặt
trời lặn, kẻ ấy đến một làng có tường thành
chung quanh. Nghĩ là
một kẻ do thám, những người lính gác lập tức bắt
kẻ ấy. Họ đem kẻ ấy đến một
cái chòi gần cổng thành và thẩm vấn, như người
ta vẫn thường làm đối với kẻ bị tình nghi.
Họ hỏi gì, kẻ ấy trả lời
hết, cho họ thấy là mình chẳng biết gì cả.
Họ lột quần áo để khám xét từ đỉnh đầu đến gót
chân xem kẻ ấy có thư
từ gì không. Làm hết cách mà
không moi được gì, họ trói kẻ ấy lại, dẫn đến
viên chỉ huy, để ông này có cách bắt phải khai.
Kẻ ấy xin họ cho mình mặc áo hành hương để đi,
nhưng họ không chịu, chỉ cho mặc quần và áo ngắn
thôi, như đã nói trên
.
52
Trên đường, kẻ hành hương làm như thấy Ðức Kitô
bị dẫn đi
,
nhưng đó không phải là một thị kiến như những
lần khác. Kẻ ấy bị dẫn đi qua ba đường phố dài,
chẳng buồn chi hết, trái lại còn vui và thích
nữa
.
Kẻ ấy có thói quen xưng hô đơn sơ với mọi người,
chứ không kiểu cách, vì xưa Ðức Kitô và các tông
đồ cũng nói năng như vậy
.
Ðang đi, kẻ ấy nảy ra ý bỏ thói quen ấy trong
dịp này, và gọi viên chỉ huy là ngài, vì hơi sợ
sẽ bị người ta tra tấn, v.v... Nhưng nhận ra đó
là một cám dỗ, kẻ ấy tự nhủ: "Ðã vậy, mình sẽ
không gọi ông ta là ngài, cũng chẳng kính cẩn
hay giở nón chi hết."
53
Ðến chỗ viên chỉ huy, kẻ ấy được dẫn đến một
phòng thấp, và một lát sau thì viên chỉ huy đến
gặp kẻ ấy. Chẳng tỏ dấu kính
nể nào, kẻ ấy trả lời ngắn gọn, nhưng giữ khoảng
cách giữa các từ thật dài. Viên chỉ huy
cho kẻ ấy là khùng, nên nói với những người đã
dẫn kẻ ấy đến: "Tên này lẩn thẩn, trả cho nó
đồ đạc rồi tống cổ nó đi."
Vừa
ra khỏi dinh, kẻ ấy gặp một người Tây Ban Nha
sinh sống ở đó. Ông này đưa kẻ ấy về nhà,
cho ăn uống, vì đã nhịn đói từ mấy tiếng đồng
hồ
,
và mọi sự cần thiết trong đêm ấy.
Sáng dậy, kẻ ấy lên đường và
đi bộ cho tới chiều tối.
Lúc ấy có hai người lính
trên vọng gác thấy kẻ ấy nên xuống bắt.
Họ dẫn kẻ ấy đến trước viên chỉ huy người
Pháp
.
Hỏi điều này điều kia,
rồi ông ấy hỏi kẻ ấy quê quán ở đâu. Khi biết kẻ
ấy quê ở tỉnh Guipuzcoa, ông ấy nói: "Tôi ở
gần ngay đó." Hình như là ở vùng
Bayonne
.
Rồi ông ấy bảo lính: "Dẫn anh ấy đi, cho
ăn uống và đối xử tử
tế."
Trong
chuyến đi từ Ferrara đến Genova, kẻ ấy còn gặp
những chuyện bất ngờ lý thú khác nữa, nhưng rốt
cuộc cũng đến được Genova. Tại đó, có một
người quê ở tỉnh Viscaya tên là Portundo nhận ra
kẻ hành
hương
.
Trước kia, khi còn phục vụ ở triều đình Vua Công
Giáo
,
kẻ ấy đã gặp ông ấy và hai người đã nói chuyện
với nhau nhiều lần
. Ông này gởi kẻ ấy trên
một chiếc tàu đi
Barcelona
.
Kẻ ấy rất có nguy cơ bị bắt, vì tàu bị Andrea
Doria, lúc ấy đang phục vụ người Pháp, truy
kích
.
Trở về Nội Dung
ÐI HỌC VÀ TÌM BẠN
54
Ðến Barcelona
,
kẻ ấy cho bà Isabel Roser
và thầy Ardevol
biết về ước muốn đi học. Cả
hai cùng thấy đó là ý tốt. Người trước
sẵn lòng lo việc ăn
ở, người sau sẽ lo việc dạy học miễn phí. Kẻ
hành hương quen một đan sĩ ở Manresa, tôi nghĩ
là ở dòng Thánh Bênađô
,
một người rất đạo đức, và kẻ ấy muốn ở với vị
đan sĩ để học và để chăm lo đời sống thiêng
liêng, và cũng để mưu ích cho các linh hồn nữa.
Vì thế kẻ ấy trả lời là sẽ
nhận lời họ nếu ở Manresa không tìm được lợi ích
thiêng liêng như lòng mong ước.
Ðến đó, kẻ ấy được biết vị
đan sĩ đã qua đời rồi. Kẻ ấy quay lại
Barcelona và bắt đầu chăm chỉ học
hành
.
Nhưng có một chuyện rất phiền phức là khi kẻ ấy
muốn học thuộc lòng, ở những bước đầu học Latinh
thường cần làm thế, những hiểu biết mới về đời
sống thiêng liêng, những hứng khởi mới lại đến
trong tâm trí, đến nỗi kẻ ấy không nhớ được gì,
mà cố gắng đến đâu cũng không xua đuổi được.
55
Kẻ ấy thường suy nghĩ về việc này, và tự nhủ:
"Ngay cả khi cầu nguyện hay dự lễ mình cũng
không có được những ánh sáng mạnh mẽ như vậy."
Rồi dần dần, kẻ ấy nhận
ra đó là cám dỗ. Sau khi đọc kinh, kẻ ấy
đến nhà thờ Ðức Mẹ Biển
,
gần nhà thầy giáo. Trước đó,
kẻ ấy đã xin thầy đến nhà thờ để nghe kẻ ấy nói.
Trong khi hai người ngồi với
nhau, kẻ ấy kể hết cho thầy biết những điều xảy
đến trong tâm hồn, việc ít tiến bộ trong học
tập, và lý do tại sao. Kẻ ấy muốn hứa với
thầy: "Xin hứa với thầy bao lâu có được bánh
mì và nước lã để sống ở Barcelona, sẽ không bao
giờ bỏ tiết học nào trong 2 năm này." Vì kẻ
ấy cam kết với tất cả quyết tâm, nên không bao
giờ bị cám dỗ như vậy nữa
.
Lúc ở Manresa, kẻ ấy bị đau
dạ dày, nên phải mang giày.
Từ khi khởi hành đi
Giêrusalem, kẻ ấy thấy dạ dày trở lại bình
thường. Vì vậy trong
thời gian đi học ở Barcelona, kẻ ấy ước muốn làm
việc hãm mình như xưa. Kẻ ấy khoét lỗ ở
hai đế giày, và càng ngày càng khoét rộng hơn,
nên khi cái lạnh mùa đông đến, giày không còn đế
nữa, chỉ còn phần trên thôi
.
56
Sau hai năm học hành, kẻ ấy được cho biết là đã
tiến bộ nhiều, thầy giáo nói đã đến lúc kẻ ấy có
thể theo học triết lý, nên khuyên kẻ ấy đi
Alcalá
.
Dầu vậy, kẻ ấy còn xin một
tiến sĩ thần học kiểm tra, và vị này cũng khuyên
kẻ ấy như vậy.
Kẻ ấy đi Alcalá một mình, mặc
dầu tôi nghĩ là đã có mấy bạn cùng chí
hướng
.
Ðến nơi, kẻ ấy bắt đầu xin
ăn và sống nhờ của bố thí. Sống như vậy
được khoảng 10 hay 12 ngày thì một hôm có một
giáo sĩ và mấy người cùng đi thấy kẻ ấy xin ăn,
nên chê cười và thốt ra những lời khinh bỉ, như
người ta vẫn thường làm đối với một người khỏe
mạnh mà đi xin ăn
.
Ðúng lúc ấy, người phụ trách nhà tế bần Antezana
mới thành lập
đi qua, chạnh lòng thương kẻ ấy
,
nên gọi và dẫn kẻ ấy về nhà tế bần, cho kẻ ấy
một phòng và tất cả những điều cần thiết.
57
Kẻ ấy học gần một năm rưỡi ở
Alcalá
.
Kẻ ấy đã đến Barcelona vào Mùa Chay năm 1524,
rồi học ở đó 2 năm, nên đến Alcalá vào năm 1526.
Kẻ ấy học môn biện chứng theo Soto, môn vật lý
theo Albertô, và Tôn sư các Luận
Ðề
.
Trong khi ở Alcalá, kẻ ấy cũng hướng dẫn Linh
Thao
và dạy giáo lý Công Giáo, và
thu được hoa trái để tôn vinh Thiên Chúa.
Nhiều người đã hiểu sâu xa
và ham mê những điều liên hệ đến đời sống thiêng
liêng. Có những người
khác bị cám dỗ cách này cách khác. Thí dụ
có người muốn đánh tội, nhưng không sao làm
được, như thể có ai giữ tay
lại vậy. Có những điều khác
khiến cho công chúng bình phẩm, nhất là vì rất
nhiều người trong thành phố xúm lại nghe kẻ ấy
dạy giáo lý. Tôi nhớ lại một đêm
kia Cha đã sợ hãi thế nào
.
Sau khi
đến Alcalá ít lâu, kẻ ấy gặp Don Diego de Eguia
lúc ấy đang sống với người anh.
Ông này có một nhà in ở
Alcalá và sống rất phong lưu.
Hai anh em cũng cho kẻ ấy
của bố thí để giúp người nghèo và cho 3 người
bạn cùng chí hướng
của kẻ hành hương ở trọ tại nhà. Có lần
kẻ ấy xin bố thí để làm chi đó, Don Diego lúc ấy
không có tiền, nhưng mở một cái tráp ra, trong
đó có nhiều thứ, và cho kẻ ấy những khăn phủ
giường màu này màu khác, những chân nến và những
thứ khác nữa. Kẻ hành hương lấy một cái khăn gói
lại, đặt lên vai, đem đi giúp người
nghèo
.
58
Như đã nói trên kia, dân chúng trong vùng bắt
đầu bàn tán xôn xao về những điều xảy ra tại
Alcalá, người nói thế này, kẻ nói thế
kia
.
Tiếng đồn đến tai Tòa Án Giáo Lý ở
Toledo
.
Khi các thanh tra đến Alcalá
,
người chủ nhà báo tin cho kẻ hành hương, và cho
biết các vị ấy gọi họ là bọn áo vải bố,
đám thần khải, hình như vậy, và định tra
tấn họ. Các vị ấy lập tức mở một cuộc kiểm tra
và điều tra về đời sống của họ, nhưng rốt cuộc
quay về Toledo mà không triệu tập họ, dù các vị
ấy đến cốt để làm điều đó
.
Các vị ấy giao vụ này cho cha đại diện Figueroa,
người hiện nay đang ở với Hoàng
Ðế
.
Mấy hôm sau
,
cha đại diện triệu tập họ và thông báo các vị
thanh tra đã điều tra và kiểm tra về đời sống
của họ và thấy không có gì sai lạc trong cách
sống cũng như trong giảng dạy, nên họ có thể
tiếp tục làm như cũ, không bị hạn chế chi hết.
Nhưng vì họ không phải là tu
sĩ trong một dòng tu, việc họ mặc quần áo giống
nhau là không thích hợp. Vì thế họ nên,
và cha ấy ra lệnh cho họ: hai người, cha ấy chỉ
kẻ hành hương và Arteaga, nhuộm quần áo màu đen,
hai người kia, Calixto và Caceres, màu nâu tươi,
còn Juanico
,
một thanh niên người Pháp, có thể giữ nguyên.
59
Kẻ hành hương nói họ sẽ tuân lệnh, và thêm:
"Nhưng con không biết là điều tra như vậy để làm
gì. Mới đây thôi, có cha không chịu cho một
người trong nhóm chúng con rước lễ, vì anh ấy
rước lễ hằng tuần. Cả con cũng bị làm khó dễ
nữa. Xin cho con biết là các vị ấy có thấy chúng
con lạc giáo gì không ạ."
Cha Figueroa trả lời: "Không. Nếu có thì các
anh bị thiêu rồi!" Kẻ hành hương tiếp:
"Nếu lạc giáo thì cả cha cũng bị thiêu!"
.
Họ
nhuộm quần áo theo lệnh trên, và khoảng hai ba
tuần sau, cha Figueroa lại bắt kẻ hành hương
phải mang giày, cấm đi chân không. Họ tuân lệnh,
không thắc mắc gì, như kẻ ấy vẫn luôn luôn làm
khi nhận được lệnh như vậy
.
Bốn tháng sau,
chính cha Figueroa lại điều tra về
họ
.
Ngoài các lời cáo buộc cũ, tôi nghĩ lý do là vì
có một phụ nữ, đã kết hôn và nổi tiếng, rất quí
mến kẻ hành hương. Một hôm bà đến nhà tế bần lúc
sáng sớm, trời còn tối, để người ta khỏi nhận
ra. Khi đi, bà trùm khăn theo thói quen ở
Alcalá. Ðến nơi, bà giở khăn ra, và tới phòng kẻ
hành hương. Nhưng cả lần này người ta cũng không
làm gì họ: không triệu tập sau khi điều tra và
cũng chẳng bảo họ gì hết
.
Tôi nhớ lại những điều cha Bustamente đã
kể.
60
Bốn tháng sau nữa, lúc kẻ ấy sống trong một căn
nhà nhỏ ngoài nhà tế bần, một hôm
có một cảnh sát đến cửa gọi kẻ ấy ra ngoài và
nói: "Ði với tôi một chút." Anh ta tống
giam kẻ ấy và nói: "Không được ra khỏi đây
cho tới khi có lệnh." Lúc ấy là mùa hè. Vì
kẻ ấy không bị canh gác chặt chẽ lắm, nhiều
người đến thăm kẻ ấy. Trong số ấy có M.,
cha giải tội của kẻ ấy.
Kẻ ấy dạy giáo lý và hướng dẫn Linh Thao như lúc
còn tự do
.
Mặc dầu nhiều luật sư và biện lý muốn giúp,
nhưng kẻ ấy từ chối. Kẻ ấy nhớ đặc biệt Dona
Teresa de Cardenas
.
Bà gởi người đến thăm kẻ ấy và nhiều lần muốn
giúp cho kẻ ấy được thả, nhưng kẻ ấy không chịu,
luôn luôn trả lời: "Tôi đã vào đây vì yêu mến
ai, thì Ðấng ấy sẽ đưa tôi ra, nếu điều ấy phục
vụ Người."
61
Kẻ ấy ở trong tù 17 ngày mà không có
ai thẩm vấn, và cũng
không biết tại sao mình lại bị giam. Cha
Figueroa cuối cùng đến nhà giam
và hỏi kẻ ấy nhiều điều, cả đến hỏi kẻ ấy có
khuyên ai giữ ngày sabát
không
.
Cha ấy cũng hỏi kẻ ấy có biết hai người kia, một
phụ nữ và cô con gái không. Kẻ ấy trả lời là có.
Cha ấy lại hỏi trước khi họ đi, kẻ ấy có biết gì
không; kẻ ấy trả lời là không, vì đã
thề
.
Cha Tổng Ðại Diện đặt tay trên vai kẻ ấy tỏ vẻ
hài lòng, rồi nói: "Ðó là lý do khiến anh
phải vào đây." Trong số nhiều người trước đó
hay đến với kẻ ấy, có hai mẹ con bà kia, cả hai
cùng góa chồng, người con rất trẻ và rất đẹp. Họ
đã tiến tới nhiều trong đời sống thiêng liêng,
nhất là người con. Mặc dầu thuộc hàng quí tộc,
họ đã đi bộ đến viếng đền thờ có khăn bà
Vêrônica ở Jaen
,
hình như chỉ có hai mẹ con, và xin ăn trên
đường. Việc này đã gây xôn xao ở Alcalá. Tiến sĩ
Ciruelo, phần nào như người bảo trợ họ, nghĩ
rằng kẻ ấy đã thổi cho họ ý tưởng đó, nên cho
bắt kẻ ấy
.
Nghe cha đại diện nói rồi, kẻ ấy hỏi: "Cha có
muốn con nói thêm về vụ này không ?" Cha ấy
trả lời: "Nói đi." Kẻ ấy tiếp: "Cha
nên biết là hai mẹ con bà ấy đã nhiều lần nói
với con về ước nguyện đi khắp thế giới để phục
vụ người nghèo trong nhà tế bần này, nhà tế bần
khác. Con luôn luôn cố gắng khuyên họ bỏ ý định
ấy, vì người con gái còn trẻ và đẹp. Con đã bảo
họ nếu muốn thăm bệnh nhân, họ có thể làm ngay
tại Alcalá, và cùng đi với các cha đem Mình
Thánh cho bệnh nhân."
Sau khi trao đổi, cha Figueroa ra đi cùng với
viên kiểm sát, người đã ghi chép mọi
sự
.
62
Lúc ấy Calixto đang ở
Segovia
.
Nghe tin kẻ ấy bị bắt giam, anh ấy đến ngay lập
tức, mặc dầu vừa mới hồi phục sau một cơn bệnh
nặng, và muốn cùng bị giam với kẻ ấy. Nhưng kẻ
hành hương bảo anh ấy nên đến gặp cha đại diện.
Cha này tiếp đón anh ấy tử tế, nhưng cho biết là
cha sẽ tống giam anh ấy, tới khi nào hai phụ nữ
kia trở về, để xem họ có xác nhận lời khai của
kẻ ấy không. Calixto ở tù được ít hôm thì kẻ
hành hương thấy có hại cho sức khỏe của anh ấy,
vì anh ấy vẫn chưa hồi phục hoàn toàn, nên nhờ
một thầy thuốc là bạn giúp đỡ để anh ấy được
thả
.
42 ngày trôi qua kể từ khi kẻ ấy bị bắt giam đến
hôm được thả. Hai phụ nữ sốt sắng đã trở
về
,
và viên kiểm sát vào nhà giam đọc bản án. Kẻ ấy
được tự do, nhưng kẻ ấy và các bạn cùng chí
hướng phải mặc quần áo giống các sinh viên
khác
,
và không được đề cập các vấn đề thuộc về đức tin
trong vòng 4 năm
,
cho tới khi học hành đến nơi đến chốn, vì như
lúc ấy thì chưa đủ. Nói cho đúng thì kẻ hành
hương được học hành nhiều nhất, nhưng không có
nền tảng vững chắc, và mỗi lần bị thẩm vấn, đó
là điều đầu tiên kẻ ấy thường khai.
63
Với bản án, kẻ ấy hơi phân vân không biết phải
làm gì. Hình như kẻ ấy bị đóng cửa, không cho
giúp đỡ các linh hồn, vì người ta không nêu lý
do nào khác ngoài việc chưa học đủ. Cuối cùng,
kẻ ấy quyết định đi gặp Ðức Tổng Giám Mục
Fonseca của Toledo để ngài xem xét sự việc.
Kẻ ấy rời
Alcalá
đi Valladolid gặp Ðức Tổng Giám
Mục
.
Kẻ ấy thuật lại chính xác những điều đã xảy ra,
và nói mình không còn thuộc quyền tài thẩm của
ngài nữa
,
nên cũng không bị buộc phải tuân theo quyết định
của ngài
,
nhưng kẻ ấy sẽ làm bất kỳ điều gì ngài truyền
dạy. Kẻ ấy vẫn giữ cách xưng hô đơn giản như với
mọi người khác
.
Ðức Tổng Giám Mục lắng nghe chăm chú, và thấy kẻ
ấy muốn đi Salamanca
,
ngài cho biết là ở Salamanca ngài có nhiều bạn,
có cả một học viện nữa
,
và ngài sẵn lòng giúp đỡ kẻ ấy. Ngoài ra, khi kẻ
ấy đi, ngài còn cho 4 đồng escudos nữa.
64
Sau khi đến Salamanca
,
một hôm kẻ ấy đang cầu nguyện trong một nhà thờ,
một bà đạo đức nhận ra kẻ ấy cùng nhóm với 4
người bạn cùng chí hướng đã đến đó mấy hôm trước
.
Bà này hỏi tên kẻ ấy, rồi dẫn đến chỗ các bạn
cùng chí hướng ở. Lúc còn ở Alcalá, họ đã bị
buộc phải mặc quần áo giống như các sinh viên,
kẻ hành hương đã trả lời:"Trước đây, cha ra
lệnh cho chúng con nhuộm quần áo, chúng con đã
nhuộm rồi. Bây giờ cha ra lệnh như vậy, chúng
con không làm được, vì không có tiền để mua quần
áo khác." Thế là chính cha đại diện cấp cho
họ quần áo, mũ, và tất cả những gì các sinh viên
phải có. Họ đã ăn mặc như vậy mà rời Alcalá.
Ở Salamanca,
kẻ hành hương xưng tội với một cha Dòng Ðaminh ở
tu viện San
Esteban
.
Một hôm, khoảng 10 hay 12 ngày từ khi kẻ ấy đến,
cha giải tội nói với kẻ ấy: "Các cha trong
nhà muốn nói chuyện với anh." Kẻ ấy đáp:
"Nhân danh Thiên Chúa, con xin vâng." Cha
giải tội nói tiếp: "À, Chúa Nhật này, anh đến
đây ăn cơm trưa, nhưng tôi báo trước là các cha
muốn biết nhiều điều về anh đấy."
Vào Chúa Nhật,
kẻ ấy cùng với Calixto đến. Sau bữa ăn, cha tu
viện phó (cha tu viện trưởng đi vắng), cha giải
tội và một cha khác nữa, tôi nghĩ vậy, cùng với
họ vào một nhà nguyện. Cha tu viện phó, rất dễ
thương, khởi đầu nói là các cha nhận được những
báo cáo tốt về đời sống và cung cách của họ; họ
rao giảng theo cách thức tông
đồ
,
nhưng các cha mong được biết thêm chi tiết về
tất cả những điều ấy. Trước hết, cha hỏi họ đã
học hành thế nào. Kẻ hành hương đáp: "Trong
tất cả chúng con thì con được học nhiều nhất."
Rồi kẻ ấy trình bày rõ ràng là mình đã học được
ít thôi và thiếu nền tảng nữa.
65
Cha tu viện phó hỏi: "Vậy các anh giảng gì ?"
Kẻ hành hương đáp :"Chúng con không giảng,
chỉ nói chuyện với năm bảy người cách thân mật
về những điều thuộc về Thiên Chúa, thí dụ sau
bữa ăn, với mấy người mời chúng con." Vị tu
sĩ hỏi tiếp :"Nhưng các anh nói những điều về
Thiên Chúa thế nào? Ðó là điều chúng tôi muốn
biết." Kẻ hành hương nói : "Chúng con nói
về nhân đức này nhân đức kia, luôn luôn ca ngợi;
lúc khác lại nói về tật xấu này, tật xấu kia,
luôn luôn kết án." Vị tu sĩ lại nói :"Các
anh không được học mà nói về nhân đức và tật xấu
sao? Chỉ có hai trường hợp người ta nói được như
vậy: hoặc là được học, hoặc là do Chúa Thánh
Thần."
Ðến đây, kẻ hành hương suy nghĩ một chút, vì
thấy cách lý luận này không ổn. Chính
những điều các anh cho là Chúa Thánh Thần soi
sáng thì chúng tôi muốn biết. Thinh lặng
giây lát, rồi kẻ ấy nói không cần phải thêm gì
nữa
.
Vị tu sĩ dằn giọng :"Hiện nay, biết bao lầm
lạc của Erasme
và của nhiều người khác đang lừa gạt thiên hạ,
vậy mà anh không chịu giải thích mình giảng dạy
những gì sao ?"
66
Kẻ hành hương đáp: "Thưa cha, con không nói
gì thêm nữa, trừ khi đến trước các bề trên có
quyền buộc con phải nói."
Trước đó, vị tu sĩ đã hỏi tại sao Calixto mặc
quần áo như vậy. Anh ấy mặc một cái áo khoác
ngắn, đầu đội một cái mũ rộng, tay cầm gậy, chân
mang giày cao tới gần đầu gối. Vì anh ấy cao lêu
nghêu, nên nhìn rất kỳ cục. Kẻ hành hương kể cho
cha ấy nghe chuyện họ đã bị bắt giam ở Alcalá và
đã được lệnh phải mặc quần áo giống như các sinh
viên, nhưng vì trời nóng quá, anh bạn cùng chí
hướng ấy cho một giáo sĩ nghèo chiếc áo chùng
thâm. Vị tu sĩ lẩm bẩm trong miệng để họ hiểu là
vị ấy không hài lòng : "Bác ái phải khởi đầu
từ chính mình."
Nhưng hãy trở
về với câu chuyện. Ngoài câu vừa nêu, vị tu viện
phó không moi được câu nào khác của kẻ hành
hương, nên nói :"Cứ ở lại đây, chúng tôi sẽ
biết cách làm cho các anh phải nói." Tất cả
các tu sĩ phần nào vội vàng bỏ đi. Trước đó, kẻ
hành hương đã hỏi xem họ phải ở lại nhà nguyện
hay nơi nào khác, vị tu viện phó đã trả lời :
"Trong nhà nguyện." Thế là các tu sĩ khóa
hết cửa lại, và hình như đi thảo luận với các vị
quan tòa. Tuy nhiên, hai người ở trong tu viện
ba ngày mà không nghe ai nói gì về việc xét xử
cả. Họ dùng bữa trong phòng ăn với các tu sĩ, và
phòng họ hầu như lúc nào cũng đầy các tu sĩ đến
thăm. Kẻ hành hương luôn luôn nói về các đề tài
trước đến nay vẫn nói. Kết quả là giữa các tu sĩ
có sự chia rẽ, vì nhiều người tỏ ra có thiện cảm
với họ.
67
Sau ba ngày, một viên kiểm sát đến dẫn họ vào
nhà giam
.
Họ không bị nhốt bên dưới, chung với các thường
phạm, nhưng ở phòng phía trên, vì phòng này đã
cũ và không dùng đến, nên rất dơ
bẩn
.
Hai người bị buộc vào nhau bằng một sợi xích,
mỗi người một chân. Sợi xích này dài chừng hơn 3
mét, được buộc vào một cái cột ở giữa phòng. Mỗi
khi một người muốn làm gì thì người kia phải đi
theo. Suốt đêm họ không ngủ
.
Hôm sau, khi nghe tin họ bị giam, bạn bè trong
thành phố gởi vào nhà giam cho họ những gì cần
để ngủ và mọi thứ cần thiết khác. Nhiều người
đến thăm họ, và kẻ hành hương tiếp tục nói
chuyện về Thiên Chúa.
Cha Frias cao
đẳng
đến hỏi riêng từng người, và kẻ hành hương trao
cho cha ấy tất cả tập vở, tức là cuốn Linh
Thao
,
để cha ấy xem xét. Cha ấy hỏi họ có bạn cùng chí
hướng không, họ trả lời có, và cho biết địa chỉ.
Ngay lập tức, cha ấy ra lệnh cho người đi bắt
Caceres và Arteaga, nhưng không bắt
Juanico
,
và tống giam. Sau này Juanico vào dòng
tu
.
Người ta không nhốt hai người sau ở phòng trên
với hai người trước, nhưng ở bên dưới với các
thường phạm. Ở đây, hơn lúc nào hết, kẻ hành
hương không chịu nhờ đến luật sư hay biện lý.
68
Mấy ngày sau, kẻ ấy
bị triệu tập đến trước 4 thẩm phán: đó là các
tiến sĩ Sanctisidoro
,
Paravinhas
,
Frias
,
và người thứ tư là cha Frias cao đẳng. Cả bốn vị
đều đã đọc tập Linh Thao. Các vị này hỏi kẻ ấy
về nhiều điều, chẳng những về Linh Thao, mà cả
về thần học, thí dụ hiểu các điều khoản đức tin
về Chúa Ba Ngôi, về bí tích Thánh Thể thế nào.
Trước hết, kẻ ấy nói lời mào
đầu
.
Tuy nhiên, theo lệnh của các thẩm phán, kẻ ấy
nói thế nào mà các vị ấy không bắt lỗi được chi
hết. Cha Frias cao đẳng, luôn luôn tỏ ra khó hơn
các vị khác, hỏi cả một câu về giáo
luật
.
Bị buộc phải trả lời mọi câu hỏi, kẻ ấy luôn
luôn mở đầu bằng việc lặp lại là mình không biết
ý kiến của các tiến sĩ về các điểm ấy. Kế đến,
các vị ấy ra lệnh cắt nghĩa Ðiều Răn Thứ Nhất
như kẻ ấy vẫn thường làm. Kẻ ấy mở máy, nói dài
dòng và rất nhiều thứ về Ðiều Răn Thứ Nhất, đến
nỗi các vị ấy không còn muốn hỏi thêm gì nữa.
Trước đó, khi nói về Linh Thao, các vị ấy tỏ ra
lưu ý đặc biệt đến chỉ một điểm ở phần đầu: khi
nào một ý nghĩ là tội nhẹ, và khi nào là tội
trọng? Vì kẻ ấy chưa được học mà dám quả quyết.
Kẻ ấy đáp : "Xin quí cha cứ xét những điều
con nói có đúng không, nếu không đúng, xin cứ
kết án." Cuối cùng các vị ấy đi mà không kết
án chi hết.
69
Trong số nhiều người đến thăm kẻ ấy trong tù, có
Don Francisco de Mendoza, hiện là hồng y ở
Burgos
.
Lần ấy, vị này cùng đến với cha Frias cao đẳng.
Thân mật như bạn bè, vị ấy hỏi ở tù thấy thế
nào, có nặng nề không; kẻ hành hương đáp :
"Xin trả lời anh bạn như tôi mới trả lời một bà
tỏ ra xót xa vì thấy tôi bị giam. Tôi đã nói thế
này : Như vậy là bà không ước ao bị giam vì yêu
mến Chúa. Bà cho bị giam là ghê gớm lắm sao ?
Ðối với tôi, xin thưa bà là ở Salamanca này chưa
có đủ gông cùm xiềng xích đâu, tôi còn ước ao
chịu hơn nữa vì yêu mến Chúa."
Trong thời
gian ấy, có hôm tất cả những người bị giam giữ
trốn khỏi nhà tù, nhưng hai người bạn cùng chí
hướng bị giam với họ lại không trốn. Sáng hôm
sau, người ta thấy chẳng còn ai, chỉ còn họ bên
trong các cửa đã mở toang, mọi người đều rất cảm
phục, và người ta bàn tán nhiều ở thành phố.
Ngay tức khắc, người ta cho họ đến ở tù trong
nguyên một lâu đài gần
đó
.
70
22 ngày sau khi bị bắt, họ được triệu tập để
nghe phán quyết. Họ không sai lỗi gì trong cách
sống cũng như trong lời giảng dạy, vì thế họ
được tiếp tục làm như trước, nghĩa là dạy giáo
lý và nói những điều thuộc về Thiên Chúa, với
điều kiện là không bao giờ được xác định một
hành vi nào đó là tội trọng hay tội nhẹ, bao lâu
họ chưa học xong 4 năm
.
Sau khi tuyên đọc bản án, các vị thẩm phán tỏ ra
rất thiện cảm, như thể các vị ấy muốn làm cho họ
chấp nhận. Kẻ hành hương nói bản án ra thế nào,
mình sẽ thi hành như vậy, nhưng sẽ không chấp
nhận. Vì họ không bị kết án chi cả, thế mà bị
người ta bịt miệng không cho giúp đỡ các linh
hồn theo cách thức của họ
.
Tiến sĩ Frias tỏ ra rất cố gắng thuyết phục, và
tỏ ra rất tình cảm, nhưng kẻ hành hương một mực
nhắc lại là chỉ tuân lệnh bao lâu còn thuộc
quyền tài thẩm của giáo phận Salamanca thôi. Họ
được trả tự do ngay lập tức
.
71
Thế 1à kẻ ấy quyết định đi Paris để theo đuổi
việc học
.
Tại Barcelona, khi suy xét nên đi học không và
đi học bao nhiêu năm, quan tâm duy nhất của kẻ
ấy là muốn biết sau khi học sẽ gia nhập một dòng
tu hay sẽ đi nơi này nơi khác trên thế giới. Và
khi nghĩ đến việc gia nhập một dòng tu, kẻ ấy
cảm thấy ngay ước ao chọn một dòng tu nào suy
thoái và ít được cải tổ, vì nếu kẻ ấy gia nhập
dòng tu chính là để chịu đau khổ hơn. Kẻ ấy tin
rằng Thiên Chúa cũng sẽ giúp đỡ họ vì Thiên Chúa
ban cho kẻ ấy lòng tin tưởng sắt đá là mình sẽ
dễ dàng chịu được tất cả những gian khổ và tất
cả những sỉ nhục người ta có thể gây
ra
.
Tại Salamanca,
thời gian bị giam giữ đã không làm phai nhạt nơi
kẻ ấy những ước nguyện mưu ích cho các linh hồn.
Chính vì thế, kẻ ấy đã quyết định đi học và qui
tụ những người cùng chí hướng cũng như giữ những
bạn cùng chí hướng đã có. Sau khi quyết định đi
Paris, kẻ ấy thỏa thuận với họ là họ sẽ ở lại
chờ kẻ ấy; còn kẻ ấy sẽ xem có thể tìm được
phương tiện để họ đi học được
không
.
72
Nhiều người nổi tiếng đã hết sức năn nỉ kẻ ấy
đừng đi, nhưng không sao thuyết phục được. Chưa
đầy 15 hay 20 ngày sau khi được thả, kẻ ấy một
mình ra đi
,
mang theo mấy quyển sách trên một con lừa nhỏ
.
Ðến Barcelona
,
kẻ ấy được mọi người từng quen biết cố can ngăn
đừng sang Pháp, vì chiến sự dữ dội đang diễn ra
ở đó
.
Họ nêu lên những thí dụ rất rõ ràng, cả đến cho
rằng người Tây Ban Nha bị xiên để nướng. Nhưng
kẻ ấy không hề mảy may sợ sệt.
73
Một mình và đi bộ, kẻ ấy lên đường đi
Paris
,
và tới nơi vào khoảng tháng 2. Tôi nghĩ đó là
năm 1528 hay 1527. Trong khi Cha bị giam ở
Alcalá thì hoàng tử Tây Ban Nha chào đời. Ðiều
này cho phép định niên đại tất cả các biến cố,
ngay cả trước đó.
Kẻ ấy trọ với mấy người Tây Ban Nha khác và theo
các lớp học cổ văn tại
Montaiguy
.
Trước đây do học vội học vàng
quá
,
nên kẻ ấy bị mất căn bản. Kẻ ấy cùng học với các
trẻ em
,
theo chương trình và phương pháp Paris
.
Ngay khi đến,
kẻ ấy đã được một nhà buôn trả cho 25 đồng
escudos theo một tín phiếu mang từ Barcelona
tới
.
Kẻ ấy trao cho một người Tây Ban Nha cùng nhà
trọ giữ giùm. Nhưng chỉ ít lâu sau, người này
tiêu xài hết, không sao hoàn lại được. Thế là
sau Mùa Chay
,
kẻ hành hương trắng tay, một phần do chính mình
đã tiêu, một phần vì lý do nêu trên. Kẻ ấy bắt
buộc phải đi ăn xin và ngay cả phải rời nhà
trọ
.
74
Kẻ ấy được nhận vào nhà tế bần Saint-Jacques
,
bên kia chỗ Các Thánh Anh Hài
.
Ở đó bất tiện cho việc đi học, vì nhà tế bần
cách học viện Montaigu khá
xa
,
mà kẻ ấy phải về nhà tế bần trước khi đổ chuông
Truyền Tin thì cửa mới còn mở, và phải chờ trời
sáng mới ra khỏi nhà tế bần được
.
Vì thế kẻ ấy không theo dự đầy đủ các tiết. Một
bất tiện khác là kẻ ấy phải đi ăn xin để
sốn
.
Từ khoảng gần
5 năm, kẻ ấy không bị đau dạ dày nữa, nên bắt
đầu gia tăng các việc đền tội và hãm mình.
Sống ở nhà tế
bần và ăn xin được ít lâu, kẻ ấy thấy việc học
hành không tiến bộ bao nhiêu, nên tự hỏi phải
làm gì. Vì thấy trong các học viện có những sinh
viên giúp việc cho một số phụ khảo
và có giờ để học, nên quyết định tìm một chỗ
làm
.
75
Kẻ ấy tự nghĩ mình sẽ hình dung giáo viên là Ðức
Kitô, và mỗi sinh viên được gọi bằng tên của một
tông đồ, thí dụ Phêrô, Gioan... và dự định này
làm cho kẻ ấy vui thích. "Khi giáo viên ra
lệnh, mình sẽ nghĩ là Ðức Kitô ra lệnh cho mình
và khi một người khác ra lệnh, mình sẽ nghĩ là
thánh Phêrô ra lệnh cho mình"
Kẻ ấy bỏ ra nhiều công để tìm một chỗ làm. Kẻ ấy
nhờ anh Castro
,
nhờ một đan sĩ Chartreux
,
vì người này quen biết nhiều giáo viên, và nhờ
những người khác nữa, nhưng không ai tìm được
việc cho kẻ ấy.
76
Không tìm ra giải pháp, có lần kẻ ấy được một tu
sĩ người Tây Ban Nha cho biết là tốt hơn mỗi năm
nên đến miền Flanders, bỏ ra hai tháng, có thể
ít hơn, và trở về với tiền đủ để học cả
năm
.
Kẻ ấy trình bày với Thiên Chúa, và thấy điều ấy
tốt. Theo lời khuyên ấy, hằng năm kẻ ấy mang từ
Flanders về số tiền tạm đủ sống. Có một lần kẻ
ấy sang cả nước Anh và nhận được của bố thí
nhiều hơn các năm khác
.
77
Từ khi đi Flanders về lần đầu, kẻ ấy bắt đầu
dành nhiều thời giờ hơn để nói chuyện về đời
sống thiêng liêng
.
Kẻ ấy hướng dẫn Linh Thao gần như đồng thời cho
ba người
,
đó là Peralta
Castro
ở Sorbonne
,
và một người Basco tên là Amador
đang học ở Sainte-Barbe
.
Cả ba thay đổi đời sống rất nhiều. Có gì họ cho
người nghèo hết, kể cả sách, và bắt đầu đi xin
ăn tại Paris. Họ đến sống tại nhà tế bần
Saint-Jacques, nơi trước đây kẻ ấy đã ở, nhưng
sau đó kẻ ấy đã rời đi vì những lý do đã nói
trên
.
Họ gây ra một vụ chấn động ở đại học, vì hai
người trước là những người xuất sắc và rất nổi
tiếng. Ngay lập tức, các sinh viên Tây Ban Nha
làm dữ với hai người giáo
viên
,
nhưng dù thuyết phục, dù lý luận thế nào cũng
không ép hai người trở về đại học được. Một hôm,
họ kéo đến đông đảo, mang theo cả hung khí, lôi
hai người ra khỏi đó
.
78
Ðưa hai người về đại học rồi, họ thỏa thuận với
hai người như sau: hai người trước hết phải học
xong đã, sau đó mới thực hiện ý định.
Castro sau đó
về Tây Ban Nha, giảng thuyết tại Burgos một thời
gian, rồi vào dòng Chartreux tại Valencia.
Peralta đi hành hương Giêrusalem, đi
bộ
,
nhưng đến Ý thì bị một người bà con làm sĩ quan
giữ lại, dẫn đến gặp Ðức Giáo Hoàng và được Ðức
Giáo Hoàng khuyên nên trở về Tây Ban Nha. Nhưng
chuyện vừa kể mấy năm sau mới xảy ra, chứ không
phải liền sau đó.
Tại Paris,
nhất là giữa cộng đồng Tây Ban Nha, người ta xầm
xì với nhau nhiều về kẻ
ấy
.
Giáo sư de Gouvea
tố cáo kẻ ấy đã làm cho Amador, sinh viên của
học viện mình, mất trí. Vì thế, ông ấy quyết
định: hễ kẻ ấy đặt chân đến Sainte-Barbe, ông sẽ
cho đánh đòn công khai về tội dụ dỗ sinh
viên
.
79
Anh chàng Tây Ban Nha từng ở chung nhà trọ với
kẻ ấy lúc đầu, và đã tiêu xài tiền của kẻ ấy mà
không hoàn lại, một hôm về Tây Ban Nha qua ngả
Rouen
.
Ðang khi ở Rouen chờ tàu, anh ta ngã bệnh. Kẻ
hành hương nhận được thư của anh ta báo tin, thì
ước ao đi thăm và giúp anh ta. Ðồng thời kẻ ấy
nghĩ là mình đến gặp anh ta như vậy sẽ cảm hóa
được anh ta để anh ta lìa bỏ thế gian mà xả thân
phục vụ Thiên Chúa
.
Muốn được vậy, kẻ ấy dự tính sẽ đi bộ 28 dặm
từ Paris đến Rouen, đi chân không, và không ăn
uống chi hết. Khi cầu nguyện về việc này, kẻ ấy
thấy mình run sợ. Cuối cùng, kẻ ấy đến nhà thờ
Saint-Dominique
.
Tại đó, kẻ ấy quyết định thực hiện những điều đã
dự tính, và điều trước đó kẻ ấy rất sợ là mình
thử thách Thiên Chúa lúc ấy tan biến
đi
.
Hôm sau, vào
buổi sáng kẻ ấy lên đường, kẻ ấy thức dậy rất
sớm. Lúc bắt đầu mặc áo, kẻ ấy cảm thấy ghê rợn
đến nỗi làm như không sao mặc được. Bất kể, kẻ
ấy ra khỏi nhà và cả thành phố trước khi trời
sáng rõ. Cái sợ đeo bám kẻ ấy đến tận
Argentueil, một làng cách Paris 3 dặm trên đường
đi Rouen
.
Theo người ta nói thì ở đó có cái áo của Chúa
Giêsu
.
Kẻ ấy đi qua làng, trong lòng vẫn xao xuyến.
Nhưng khi kẻ ấy leo lên một sườn đồi thì sự xao
xuyến bắt đầu tan biến. Thay vào đó, kẻ ấy thấy
hứng khởi , hăng hái
và vui mừng đến nỗi bắt đầu reo hò giữa cánh
đồng và nói lớn với Chúa... Tối hôm ấy, đã qua
được 14 dặm
,
kẻ ấy đến trọ, cùng với một người hành khất, tại
một nhà tế bần. Hôm sau, kẻ ấy ở trọ qua đêm tại
một kho thóc. Ngày thứ ba, người ấy đến Rouen.
Trong suốt thời gian ấy, kẻ ấy không ăn không
uống chi hết, đúng như đã quyết định từ
trước
.
Tại Rouen, kẻ
ấy an ủi người bệnh và giúp anh ta xuống tàu
thủy về Tây Ban Nha. Kẻ ấy nhờ anh ta chuyển thư
gởi các bạn cùng chí hướng ở Salamanca, tức là
Calixto, Caceres và
Arteaga
.
80
Những bạn cùng chí hướng ấy về sau thế nào, xin
nói ngay để khỏi phải nhắc lại nữa.
Như họ đã thỏa
thuận trước, từ Paris, kẻ hành hương thường
xuyên viết thư cho họ về việc khó đem họ đến
Paris học được
.
Kẻ ấy có viết thư cho Dona Leonor
Mascarenhas
,
xin bà viết thư cho triều đình vua Bồ Ðào Nha để
xin một suất học bổng tại Paris do nhà vua ban.
Bà có gởi thư cho Calixto, tặng một con la để đi
đường và tiền để chi tiêu. Calixto đến triều
đình Bồ Ðào Nha, nhưng cuối cùng không đi
Paris
.
Anh ấy về lại Tây Ban Nha rồi đến Ấn Ðộ của
hoàng đế
cùng với một phụ nữ đạo đức
.
Sau đó, anh về lại Tây Ban Nha, rồi đi Ấn độ
nữa. Cuối cùng, anh ấy quay về Tây Ban Nha, lần
này đã giàu có, làm cho mọi người từng quen biết
anh ấy ở Salamanca trước kia đều ngạc nhiên.
Caceres về quê
ở Segovia sống như thể đã quên mất ý định ban
đầu.
Arteaga được
phong làm nghĩa
sĩ
.
Sau đó, khi Dòng Tên đã được thành lập ở Rôma,
anh ấy được đề cử làm giám mục ở Ấn
Ðộ
.
Anh ấy viết thư cho kẻ hành hương để nhường chức
vụ ấy cho một anh em trong Dòng. Khi kẻ ấy từ
chối, anh ấy thụ phong giám mục, rồi sang Ấn Ðộ
của hoàng đế, nhưng chết trong hoàn cảnh khá lạ
thường. Lúc bị bệnh, anh ấy có hai chai để đựng
nước giải khát, một chai nước do thầy thuốc chỉ
định, chai kia đựng nước có chất độc. Người ta
cho anh ấy uống lộn chai có chất độc, thế là anh
ấy chết
.
81
Từ Rouen, kẻ hành hương trở lại Paris và được
biết là sau vụ Castro và Peralta, người ta đồn
thổi tùm lum những điều bất lợi cho kẻ ấy và
thanh tra giáo lý đã đặt vấn
đề
.
Không muốn chờ đợi thêm, kẻ ấy đến gặp vị thanh
tra, cho biết là kẻ ấy nghe nói vị ấy muốn gặp,
và vị ấy muốn gì kẻ ấy cũng sẵn sàng. Viên thanh
tra là cha Ory, tu sĩ dòng Thánh
Ðaminh
.
Kẻ ấy xin vị thanh tra giải quyết nhanh cho, vì
kẻ ấy có ý định bắt đầu các khóa học triết lý
vào lễ thánh Rêmi
.
Nhưng trước hết, kẻ ấy muốn mọi chuyện ổn đã, để
có thể học hành tốt hơn. Vị thanh tra không gọi
lại kẻ ấy lần nào. Vị ấy chỉ nói là quả thực
người ta có nói về những điều kẻ ấy đã làm
v.v...
82
Sau đó ít lâu đến lễ thánh Rêmi vào đầu tháng
10
.
Kẻ ấy bắt đầu học triết lý
dưới sự hướng dẫn của một giáo viên tên là Juan
Pena
.
Kẻ ấy dự tính chỉ giữ các bạn cùng chí hướng đã
quyết tâm phục vụ Thiên Chúa, không chiêu mộ
thêm, để có thể thuận lợi hơn cho việc học
hành
.
Vừa bắt đầu
theo các giảng khóa, các cám dỗ trước kia đã đến
khi kẻ ấy học Latinh ở Barcelona lại tấn công kẻ
ấy. Khi nghe giảng, không sao kẻ ấy tập trung
chú ý được, vì nhiều ý nghĩ đạo đức cứ lởn vởn.
Nhận thấy nếu cứ tiếp diễn như vậy, việc nghe
giảng sẽ không ích lợi mấy, nên kẻ ấy đến với
giáo viên và hứa không bao giờ vắng mặt, nhưng
sẽ dự tất cả khóa học bao lâu còn có được bánh
mì và nước lã để sống. Sau khi kẻ ấy hứa, tất cả
những ý tưởng đạo đức vô duyên cũng cuốn gói ra
đi, và kẻ ấy được yên ổn theo đuổi việc học.
Trong giai
đoạn này, kẻ ấy gặp cha Phanxicô Xavier và cha
Favre mà kẻ ấy dùng Linh Thao để dẫn đến đời
sống phục vụ Thiên
Chúa
.
Trong thời
gian học hành này, kẻ ấy không bị tấn công như
trước kia. Về việc này, tiến sĩ Frago
một hôm nói với kẻ ấy là ông ngạc nhiên thấy kẻ
ấy được yên ổn, không bị ai làm phiền. Kẻ ấy đáp
: "Ðơn giản là vì tôi không nói chuyện với ai
về những điều thuộc về Thiên Chúa, nhưng khi học
xong, tôi sẽ bắt đầu lại như trước kia."
83
Hai người đang nói chuyện với nhau thì có một tu
sĩ đến xin tiến sĩ Frago tìm giúp một chỗ trọ,
vì chỗ người ấy ở đang có nhiều người chết,
người ta cho là do dịch hạch. Ðúng là dịch hạch
đã bắt đầu hoành hành ở Paris rồi. Tiến sĩ Frago
và kẻ hành hương muốn đi xem nhà. Họ dẫn theo
một phụ nữ am hiểu vấn đề. Bà này vào nhà và xác
nhận đúng là dịch hạch. Kẻ hành hương cũng muốn
vào xem người bệnh, vừa an ủi vừa đặt tay vào
vết thương của người ấy. Sau khi an ủi và khuyên
bảo người bệnh, kẻ ấy ra về một mình. Kẻ ấy bắt
đầu cảm thấy đau ở bàn tay, và có cảm tưởng như
mình bị dịch hạch. Ðiều tưởng tượng ấy mạnh đến
nỗi không sao xua đuổi được, cho đến khi kẻ ấy
thọc bàn tay vào miệng, xoay qua xoay lại mà
nói: "Ðã bị dịch hạch ở tay thì cho bị ở
miệng luôn!" Ngay sau đó, điều tưởng tượng
kia và cả việc đau tay nữa cùng biến
mất
.
84
Nhưng khi về lại học viện Sainte-Barbe, nơi kẻ
ấy ăn học, những người trong học viện biết là kẻ
ấy đã vào nhà người nhiễm dịch hạch, nên chạy
trốn và không chịu cho kẻ ấy vào. Kẻ ấy buộc
lòng phải ở bên ngoài mấy ngày.
Ở Paris có một
thói quen là trong năm thứ ba triết học, muốn
nhận bằng cao đẳng, phải
'lấy đá'
như người ta nói và vì phải trả lệ phí 1 escudo
cho việc này, nên nhiều sinh viên nghèo không
thực hiện được. Kẻ hành hương phân vân chẳng
biết có nên làm không. Thấy mình dùng dằng mãi
không xong, kẻ ấy quyết định xin ý kiến giáo
viên của mình. Ông này khuyên kẻ ấy là nên, vì
thế kẻ ấy lấy. Tuy nhiên, có không ít
người phê bình kẻ ấy, ít là một người Tây Ban
Nha chỉ trích
.
Trong thời
gian ở Paris này, kẻ ấy bị đau dạ
dày
,
cứ hai tuần lại bị đau khoảng một giờ, và bị sốt
nữa. Một lần cơn đau kéo dài đến 16 hay 17 giờ.
Sau này khi đã hoàn tất chương trình triết
học
,
kẻ ấy học mấy năm thần học, và thu nhận các bạn
cùng chí hướng
,
nhưng bệnh tình ngày càng nặng hơn. Kẻ ấy đã tìm
thầy chạy thuốc khắp nơi, nhưng không có kết
quả.
85
Các thầy thuốc xét là không có gì ích lợi cho kẻ
ấy hơn khí hậu quê nhà. Các bạn cùng chí hướng
cũng khuyên như vậy, mà còn thúc giục nữa.
Ngay từ thời
gian ấy, tất cả đã quyết định phải làm gì: đi
Venezia và Giêrusalem, để xả thân mưu ích cho
các linh hồn. Nếu không được phép ở lại
Giêrusalem, họ sẽ trở về Rôma, đến trình diện vị
Ðại Diện Ðức Kitô
,
để ngài sử dụng họ ở đâu ngài xét là sẽ tôn vinh
Thiên Chúa hơn và mưu ích cho các linh hồn hơn.
Họ cũng sẽ quyết định sẽ chờ tàu thủy ở Venezia
một năm. Nếu trong năm ấy không có tàu đi Phương
Ðông, họ sẽ không bị ràng buộc với lời khấn đi
Giêrusalem nữa, và sẽ đến trình diện Ðức Giáo
Hoàng, v.v...
Cuối cùng, các
bạn cùng chí hướng thuyết phục được kẻ hành
hương, một phần cũng vì kẻ ấy có thể dàn xếp
công việc cho các bạn trong nhóm quê ở Tây Ban
Nha. Mọi người đồng ý là sau khi sức khỏe khá
hơn, kẻ ấy sẽ đi lo công việc cho các bạn, rồi
đến Venezia chờ các
bạn
.
86
Ðó là năm 1535, mà theo chương trình, các bạn
cùng chí hướng sẽ lên đường năm 1537, vào lễ
Thánh Phaolô Trở Lại
.
Nhưng vì chiến tranh bùng nổ, họ lên đường vào
tháng 11 năm 1536
.
Sắp lên đường
thì kẻ hành hương được tin mình đã bị tố cáo với
vị thanh tra giáo lý và một phiên tòa sắp được
mở ra để kết án
.
Nghe vậy, mặc dầu chưa bị triệu tập, kẻ ấy tự
mình đến gặp vị thanh tra và nói với vị ấy về
điều mình nghe được, rồi thêm là mình sắp đi Tây
Ban Nha và mình có các bạn cùng chí hướng. Vì
thế kẻ ấy xin được xét xử
.
Vị thanh tra
xác nhận là có người tố cáo, nhưng vị ấy thấy
chẳng có gì quan trọng. Vị ấy chỉ muốn xem tập
Linh Thao. Sau khi đọc, vị ấy ca ngợi lắm và xin
kẻ hành hương cho mình một bản. Ðiều này đã được
thực hiện. Tuy nhiên, kẻ ấy lại xin tiến hành
xét xử, để có bản án. Vì vị thanh tra từ chối,
kẻ ấy đi mời một viên kiểm sát và các nhân chứng
đến gặp vị ấy, và viên kiểm sát lập biên bản về
toàn bộ sự việc
.
87
Sau việc đó, kẻ ấy cỡi một con ngựa nhỏ mà các
bạn cùng chí hướng đã mua cho, và một mình lên
đường về quê
.
Trên đường, kẻ ấy cảm thấy sức khỏe khá hơn. Về
đến Tỉnh
kẻ ấy bỏ đường lớn, theo đường núi, vì ít người
qua lại hơn
.
Ði được một quãng ngắn, kẻ ấy thấy có hai người
mang vũ khí tiến lại phía mình. (Con đường này
nổi tiếng về những vụ ám sát). Sau khi đã đi
quá, họ quay lại đuổi theo kẻ ấy, nên kẻ ấy chột
dạ. Tuy nhiên, kẻ ấy hỏi họ, và được biết họ là
người giúp việc của anh kẻ ấy, và ông anh gởi họ
đi đón kẻ ấy. Hình như lúc kẻ ấy đến
Bayonne
,
bên Pháp, có người đã nhận ra kẻ ấy
.
Thế là hai người giúp việc đi trước dẫn đường,
kẻ ấy theo sau, vẫn trên con đường cũ. Trước khi
đặt chân vào phần lãnh địa của gia đình, kẻ ấy
gặp lại họ. Họ một mực nài nỉ kẻ ấy theo họ về
nhà người anh, nhưng họ không lay chuyển được kẻ
ấy. Kẻ ấy đến trọ tại nhà tế
bần[446],
và vào giờ thích hợp thì đi xin ăn trong vùng
lân cận.
88
Tại nhà tế bần, kẻ ấy bắt đầu nói những điều về
Thiên Chúa cho nhiều người đến thăm, và nhờ ơn
Chúa, nhiều hoa trái đã trổ sinh. Vừa đến nơi,
kẻ ấy quyết định mỗi ngày dạy giáo lý cho trẻ
em. Anh của kẻ ấy phản đối: chẳng ai thèm đến
đâu! Nhưng ngay từ đầu, có nhiều người đến nghe,
kể cả người anh
.
Ngoài giáo lý, kẻ ấy còn giảng, vào các Chúa
Nhật và ngày lễ, để giúp những người phải đi bộ
mấy dặm đến để nghe
.
Kẻ ấy cũng cố
gắng xóa bỏ một số lạm dụng, và nhờ ơn Chúa
giúp, đã sửa chữa được điều này điều kia. Thí dụ
về nạn bài bạc
,
kẻ ấy thuyết phục được người phụ trách tư pháp
ra lệnh cấm và có những biện pháp để thi hành
luật. Có một lạm dụng khác là các cô gái trong
vùng luôn luôn để đầu trần, và chỉ đội khăn khi
đã kết hôn. Nhưng có nhiều phụ nữ làm nhân tình
của các linh mục hay những người khác, và trung
thành với những người đàn ông ấy như thể là vợ
họ. Vì thế, thường có những cô nhân tình chẳng
xấu hổ chi hết khi mình đội khăn vì người này
người kia, mà thiên hạ ai cũng biết rõ hết.
89
Thói quen ấy sinh ra lắm thứ tội. Kẻ hành hương
thuyết phục nhà hữu trách ra luật sẽ phạt như
tội hình sự tất cả những người đội khăn vì ai đó
không phải là chồng mình
.
Thế là lạm dụng này bắt đầu bị xóa bỏ. Ðối với
người nghèo, kẻ ấy vận động để có một qui định
câng quĩ cấp phát đều đặn cho họ những điều cần
thiết. Kẻ ấy cũng can thiệp để người ta ấn định
mỗi ngày đổ chuông ba lần, sáng, trưa và tối, để
mọi người đọc kinh Truyền Tin như tại
Rôma
.
Mặc dầu lúc
đầu khỏe mạnh, sau đó kẻ ấy ngã bệnh nặng. Khi
bình phục, kẻ ấy quyết định lên đường để làm
những công việc các bạn cùng chí hướng đã
nhờ
.
Kẻ ấy cũng quyết định lên đường mà không mang
theo đồng nào trong mình. Anh của kẻ ấy rất bất
bình vì quyết định này, lại thêm xấu hổ vì kẻ ấy
đi bộ. Tối đến, kẻ hành hương đồng ý như sau: sẽ
cỡi ngựa cùng với người anh và người nhà cho đến
ranh giới tỉnh.
90
Ra khỏi ranh giới tỉnh, kẻ ấy xuống ngựa, không
đem theo gì, hướng về
Pamplona
,
rồi đi Almazan,
quê của cha Laínez rồi đi Siguenza
và Toledo
;
rồi từ Toledo đi Valencia
.
Tại quê của các bạn cùng chí hướng, kẻ ấy không
nhận gì, mặc dầu được cho rất nhiều, mà người ta
còn năn nỉ nữa
.
Tại Valencia,
kẻ ấy gặp được Castro, đan sĩ dòng
Xitô
.
Kẻ ấy muốn đáp tàu đi Genova
,
nhưng bạn bè xin đừng đi, vì họ nói tên Râu Ðỏ
đang ở trên biển cùng với nhiều tàu chiến...
Mặc dầu họ nói đủ điều để làm cho kẻ ấy sợ,
nhưng không gì làm cho kẻ ấy thay đổi ý định.
91
Kẻ ấy xuống một chiếc tàu lớn và gặp bão lớn như
đã kể trước đây, khi nói về ba lần chết
hụt
.
Ðến
Genova
,
kẻ ấy lên đường đi Bologna
.
Trên đường, kẻ ấy khổ cực trăm bề, nhất là có
lần bị lạc và phải đi bộ dọc theo bờ sông. Nước
chảy mãi dưới sâu, đường đi tít trên cao. Càng
đi xa, đường càng hẹp, hẹp đến nỗi tiến không
được mà lùi cũng không được. Kẻ ấy bắt đầu phải
bò, và tiến được khá xa, nhưng rất sợ, vì hễ
nhúc nhích là thấy như sắp lăn tòm xuống sông.
Chưa bao giờ kẻ ấy gặp khó khăn phần xác và phải
gắng sức đến như vậy. Nhưng cuối cùng cũng thoát
nạn. Ngay cửa ngõ Bologna, lúc đi qua một chiếc
cầu gỗ nhỏ, kẻ ấy ngã xuống nước. Ðứng lên được
thì người ướt nhem và dính đầy bùn, làm cho
những người gần đó phá ra cười. Vào Bologna, kẻ
ấy đi xin bố thí, nhưng không được một xu nào,
mặc dầu đã đi khắp nơi
.
Kẻ ấy ở lại Bologna ít lâu vì ốm đau, rồi đi
Venezia, vẫn theo cách ấy
.
92
Trong thời gian ở Venezia
,
kẻ ấy hướng dẫn Linh Thao và nói chuyện về đời
sống thiêng liêng. Ðặc biệt kẻ ấy hướng dẫn Linh
Thao cho một số người có tiếng như cha Pietro
Contarini
,
cha Gasparo de Dotti
,
một người Tây Ban Nha tên là Rozas
Cũng có một người Tây Ban Nha nữa là cha Hoces,
liên hệ nhiều với kẻ hành hương
,
và cả với vị giám mục Cette nữa
.
Mặc dầu cha ấy cũng mong tập Linh Thao, nhưng
chẳng khởi sự làm chi hết
.
Cuối cùng, cha ấy quyết định bắt đầu tập, và
được 3 hay 4 ngày, cha ấy mới bộc lộ tâm tình
với kẻ hành hương: cha ấy sợ là trong Linh Thao
sẽ được dạy một giáo thuyết sai lạc, như cha ấy
nghe có người nói. Vì thế, cha ấy đã đem theo
một số sách để có thể tham khảo, nếu bị lừa gạt.
Cha ấy được lợi ích rất nhiều nhờ Linh Thao, và
cuối cùng quyết định theo cách sống của kẻ hành
hương. Chính cha ấy là người qua đời trước
nhất
.
93
Ở Venezia, kẻ hành hương lại bị tấn công lần
nữa, vì nhiều người kể là người ta đã đốt hình
nộm của kẻ ấy ở Tây Ban Nha và ở
Paris
.
Vụ này đi xa đến nỗi người ta mở một phiên tòa
để xét xử, nhưng kết quả là kẻ ấy đã thắng.
Chín người bạn
cùng chí hướng đến Venezia đầu năm
1537
.
Họ chia nhau đến phục vụ trong các nhà tế
bần
.
Sau hai hay ba tháng, họ đi Rôma để xin Ðức
Thánh Cha ban phép lành cho chuyến đi
Giêrusalem
.
Kẻ hành hương không đi, vì ngại gặp tiến sĩ
Ortiz và cả vị hồng y
Thêatinô
.
Các bạn cùng chí hướng từ Rôma trở
về
,
mang theo một tín phiếu trị giá khoảng 200 đến
300 escudos là của bố thí để đi Giêrusalem. Họ
chỉ nhận tín phiếu
.
Sau đó, vì không đi Giêrusalem được, họ gởi trả
lại những người đã cho.
Ði thế
nào, các bạn cùng chí hướng về lại Venezia như
vậy, nghĩa là đi bộ và xin ăn, nhưng chia thành
ba toán, mỗi toán có những người thuộc các quốc
tịch khác nhau. Tại Venezia, ai chưa làm linh
mục thì được phong
chức
,
và vị sứ thần, sau này là hồng y Veralla, ban
các năng quyền
.
Họ thụ phong với tư cách thanh
bần
,
và mỗi người khấn thanh bần và khiết tịnh
.
Trở về Nội Dung
NHẬN SỨ MẠNG TỪ VỊ ÐẠI
DIỆN ÐỨC KITÔ
94
Năm ấy không có tàu đi Phương Ðông, vì Venezia
và Thổ Nhĩ Kỳ đoạn giao
.
Thấy rằng khả năng đi còn xa, họ phân tán trong
vùng Venezia để chờ đợi một năm như đã định
trước, và nếu một năm sau mà không có tàu thì họ
sẽ đi Rôma
.
Kẻ hành hương
cùng với Favre và Laínez đi
Vicenza
.
Tại đó, họ tìm được một căn nhà ở ngoài thành
phố, không có cửa ra vào cũng không có cửa
sổ
.
Họ ở đó và ngủ trên ít rơm họ đem vào. Mỗi ngày
hai người vào trong thành phố xin ăn hai lần,
nhưng được rất ít, nên chỉ sống cầm hơi. Thường
thì họ ăn một chút bánh mì nướng, khi có; ai ở
nhà thì lo nướng bánh. Họ sống 40 ngày như vậy,
chẳng làm gì khác ngoài cầu nguyện.
95
Sau 40 ngày, cha Jean Codure tới, và bốn người
quyết định bắt đầu giảng. Bốn người đến bốn
quảng trường của thành phố, và vào cùng ngày
cùng giờ, họ kêu gọi lớn tiếng và dùng mũ để mời
người ta tập họp lại nghe giảng. Những bài giảng
đó làm đề tài cho người ta chuyện trò với nhau
trong thành phố, nhiều người xúc động với lòng
sốt sắng và cung cấp cho họ tất cả những điều họ
cần về vật chất.
Trong thời
gian ở Vicenza, trái với thời gian ở Paris, kẻ
hành hương có nhiều thị kiến thiêng liêng, còn
các an ủi thì vừa nhiều vừa nối tiếp nhau. Trong
các chuyến đi, nhất là ở Venezia, khi chuẩn bị
thụ phong linh mục và khi chuẩn bị dâng lễ, kẻ
ấy có nhiều cuộc thăm viếng siêu nhiên tương tự
như thường có khi kẻ ấy ở Manresa.
Khi còn ở
Vicenza, kẻ ấy được tin một người bạn cùng chí
hướng
bị bệnh nặng gần chết ở
Bassano
.
Ngay lúc ấy, chính kẻ ấy cũng đang bị sốt. Bất
chấp, kẻ ấy lên đường và đi nhanh đến nỗi người
cùng đi là Favre không theo kịp. Trong chuyến đi
ấy, kẻ ấy được Thiên Chúa bảo đảm, và kẻ ấy kể
cho Favre biết, người bạn cùng chí hướng ấy
không chết vì cơn bệnh đó. Quả thật khi hai
người đến Bassano, người bệnh rất vui và hồi
phục nhanh chóng.
Sau đó, họ
quay về Vicenza: cả 10 người ở lại đó trong một
thời gian, một số đi xin ăn trong các làng quanh
Vicenza
.
96
Họ đã quyết định sau một năm mà không có tàu, họ
sẽ đi Rôma, cả kẻ hành hương nữa, vì trong
chuyến trước, hai nhân vật kẻ ấy sợ lại tỏ ra ưu
ái các bạn cùng chí hướng.
Họ chia thành
ba hay bốn toán đi Rôma
Kẻ hành hương cùng đi với Favre và Laínez. Trong
chuyến đi, kẻ ấy được Thiên Chúa viếng thăm rất
đặc biệt. Sau khi thụ phong, kẻ ấy đã quyết định
chưa dâng lễ trong vòng một năm, để dọn mình và
khấn xin Ðức Mẹ thương đặt mình với Con của Mẹ.
Và một hôm, kẻ ấy đang cầu nguyện trong một nhà
thờ, cách mấy dặm nữa thì đến Rôma, kẻ ấy cảm
thấy một sự biến đổi trong tâm hồn và thấy rõ
Thiên Chúa Cha đặt mình với Ðức Kitô là Con của
Người, đến nỗi kẻ ấy không bao giờ dám nghi ngờ
việc Thiên Chúa Cha đã đặt mình với Con của
Người.
Tôi,
người viết chuyện
này
,
đã nói với kẻ hành hương, khi nghe Cha kể, rằng
cha Laínez đã kể chuyện này với những chi tiết
khác. Cha trả lời rằng tất cả những gì cha
Laínez kể đều đúng, vì chính Cha không nhớ các
chi tiết. Trong lúc kể chuyện, Cha biết chắc Cha
chỉ kể sự thật. Về một số vấn đề khác, Cha cũng
nói như vậy
.
97
Trên đường vào Rôma, kẻ ấy nói với các bạn cùng
chí hướng là mình thấy các cửa sổ đều đóng kín,
nghĩa là họ sẽ gặp nhiều trở lực. Kẻ ấy cũng
nói: "Chúng ta phải luôn luôn cảnh giác, chỉ
nên giao tiếp với những phụ nữ nổi tiếng thôi."
Về điều này, sau đó ở Rôma, cha Phanxicô
(Xavier) giải tội cho một phụ nữ, và thỉnh
thoảng gặp gỡ để nói chuyện về đời sống thiêng
liêng. Sau đó, phụ nữ ấy có thai. May là Chúa
thương cho người ta khám phá ra kẻ làm bậy.
Chuyện tương tự cũng xảy đến cho cha Jean Codure
với một trong các cô gái là con thiêng liêng: cô
này bị bắt gặp cùng với một người đàn
ông
.
98
Từ Rôma, kẻ hành hương đến Monte-Cassino hướng
dẫn tiến sĩ Ortiz tập Linh
Thao
.
Kẻ ấy ở đó 40 ngày và trong thời kỳ ấy có lần
thấy cha Hoces lên trời. Nước mắt trào ra, kẻ ấy
được an ủi thiêng liêng rất
nhiều
.
Kẻ ấy thấy rõ ràng đến nỗi nếu nói ngược lại sợ
là mình nói dối. Từ Monte-Cassino về, kẻ ấy đem
theo Francisco Estrada
.
Về lại Rôma, kẻ ấy vẫn giúp đỡ các linh hồn và
vẫn ở vườn nho
.
Kẻ ấy hướng dẫn Linh Thao cho nhiều người cùng
một lúc, người thì ở gần nhà thờ Ðức Bà Cả,
người thì ở gần Ponte Sisto
.
Rồi các đợt tấn công bắt đầu
.
Miguel mở đầu bằng việc nói xấu kẻ hành hương,
và kẻ ấy bị triệu tập đến gặp vị Tổng
Ðốc
.
Trước hết kẻ hành hương cho vị Tổng Ðốc xem một
lá thư chính Miguel đã viết, trong đó anh ta ca
ngợi kẻ ấy hết lời. Vị Tổng Ðốc thẩm vấn Miguel
và kết cục là anh ta bị trục xuất khỏi Rôma.
Rồi Mudarra và
Barreda ra tay: họ rêu rao kẻ hành hương và các
bạn cùng chí hướng đã bị trục xuất khỏi Tây Ban
Nha, Paris rồi
Venezia
.
Cuối cùng, cả hai thú nhận trước mặt vị Tổng Ðốc
và vị đại diện Ðức Thánh Cha là không có gì đáng
trách nơi kẻ hành hương và các bạn cùng chí
hướng, cả trong cách sống cũng như trong lời
giảng dạy. Vị đại diện yêu cầu bỏ qua toàn thể
sự việc, nhưng kẻ hành hương không đồng ý, đòi
phải có phán quyết dứt khoát. Chẳng những vị đại
diện và vị Tổng Ðốc, mà cả những người ngay từ
đầu vẫn bênh vực kẻ ấy, đều không muốn như vậy.
Cuối cùng, Ðức Thánh Cha về Rôma sau mấy tháng
vắng mặt
.
Kẻ hành hương gặp ngài ở Frascati
để trình bày sự việc. Ðược biết rõ đầu đuôi, Ðức
Giáo Hoàng ra lệnh phải có phán quyết bênh vực
kẻ ấy.
Kẻ hành hương và các bạn cùng chí hướng đã giúp
đỡ để khởi sự tại Rôma vài ba công cuộc từ
thiện, thí dụ nhà cho các dự tòng, nhà Thánh
Martha, nhà cô nhi. Cha Nadal có thể kể phần còn
lại
.
Trở về Nội Dung
PHỤ LỤC
99
Sau khi Cha ngừng kể, vào ngày 20 tháng 10, tôi
hỏi Cha về Linh Thao và Hiến
Chương
,
vì muốn biết Cha đã viết thế nào. Cha cho tôi
biết là đã không soạn toàn bộ Linh Thao ngay một
lúc, nhưng khi nhận ra những diễn biến trong tâm
hồn mình, và thấy là có thể giúp người khác, thì
Cha ghi lại, thí dụ việc xét mình theo hàng kẻ.
Cha nói với tôi là đặc biệt giữa các cách lựa
chọn đã được rút ra từ sự khác biệt giữa các tác
nhân và các ý tưởng mà Cha đã nhận ra tại
Loyola, lúc còn đau chân
.
Còn về Hiến Chương, Cha bảo là tối hôm ấy sẽ
nói.
Vẫn hôm ấy,
trước bữa tối, Cha gọi tôi và tỏ ra trầm ngâm
hơn thường lệ. Cha làm như thể ra một tuyên ngôn
cho tôi, cơ bản là cho tôi biết Cha thành thật
trong tất cả những gì đã kể, chắc chắn không
cường điệu chút nào, và từ khi bắt đầu phục vụ
Chúa, Cha đã nhiều lần xúc phạm đến Chúa, nhưng
chưa bao giờ chiều theo một tội trọng nào. Hơn
nữa lòng sốt sắng của Cha, tức là việc Cha dễ
dàng gặp được Chúa, càng ngày càng gia tăng,
hiện nay hơn bất cứ lúc nào khác trong suốt cả
đời. Bất cứ lúc nào muốn gặp Chúa, Cha đều gặp
được
.
Ngay cả hiện giờ, Cha vẫn có nhiều thị kiến như
đã nói trên, tức là Cha thấy Ðức Kitô như mặt
trời
.
Ðiều này thường diễn ra khi Cha đề cập những
điều quan trọng, và các thị kiến ấy xuất hiện để
xác chuẩn
.
100
Khi dâng lễ, Cha cũng có nhiều thị kiến. Khi Cha
soạn Hiến Chương, Cha cũng rất thường có thị
kiến. Ðiều này Cha có thể chứng minh rất dễ dàng
vì mỗi ngày Cha đều ghi chép những điều diễn ra
trong tâm hồn, và Cha đã ghi chép mọi sự. Rồi
Cha cho tôi xem một đống rất lớn giấy tờ Cha đã
ghi chép, và Cha đọc cho tôi nghe khá nhiều, hầu
hết là những thị kiến xác chuẩn một số điểm
trong Hiến Chương. Ðôi khi Cha thấy Thiên Chúa
Cha, những lần khác Cha thấy Ba Ngôi Thiên Chúa,
những lần khác nữa lại thấy Ðức Mẹ lúc thì
chuyển cầu cho Cha, lúc thì xác chuẩn cho Cha.
Cha đặc biệt
nói với tôi về một số điểm Cha dừng lại nhận
định trong 40 ngày : mỗi sáng dâng thánh lễ, và
lần nào cũng chảy nước mắt. Ðó chính là việc các
nhà thờ có lợi tức không và Dòng có được thụ
hưởng không.
101
Cách Cha tiến hành khi soạn Hiến Chương là mỗi
ngày dâng lễ, trình lên Thiên Chúa điểm Cha đang
đề cập, rồi cầu nguyện về điểm ấy. Và luôn luôn
Cha chảy nước mắt khi cầu nguyện và dâng lễ.
Tôi mong được
xem tất cả giấy tờ ấy về Hiến Chương, và tôi xin
Cha cho tôi đọc ít lâu, nhưng Cha không
cho
.
--------------------------------------------
THAM
KHẢO:
1. Autobiografia de San
Ignacio de Loyola, bản tiếng Tây Ban Nha và
tiếng Ý, cùng với giới thiệu và chú thích, của
Victoriano Larranaga, S.J; trong Obras completas
de S. Ignacio de Loyola, Tomo I, Biblioteca de
Autores Cristianos, Madrid MCMXLVII.
2. Le récit du Pèlerin,
Autobiographie de Saint Ignace de Loyola, bản
dịch tiếng Pháp, cùng với giới thiệu và chú
thích của A. Thiry, S.J; Desclée de Bouwer 1956.
3. Trên Ðường Tìm Chúa (Hồi Ký
của thánh I-nhã Loyola), bản dịch tiếng Việt
Nam, cùng với giới thiệu và chú thích, của Hoàng
Văn Lục, S.J; Nhà Tĩnh Tâm Thánh I-nhã, TPHCM
1976.
4. A Pilgrims Journey, The
Autobiography of Ignatius of Loyola, bản dịch
tiếng Anh, cùng với giới thiệu và chú thích, của
Joseph N. Tylenda, S.J; Michael Galpier 1985.
5. Saint Ignace de Loyola,
Récit, bản dịch tiếng Pháp của A. Lauras, chú
thích của J.C. Dhôtel, trong Ecrits, traduits et
présentés sous la direction de Maurice Giuliani,
S.J; Collection Christus n. 76, Desclée de
Bouwer 1991.
6. Réminiscences or
Autobiography of Ignatius of Loyola, bản dịch
tiếng Anh, cùng với giới thiệu và chú thích, của
A. Munitis và Philip Endean, trong Personal
Writings, Penguin Books 1996.
7. El peregrino, Autobiografía
de San Ignacio de Loyola, bản gốc tiếng Tây Ban
Nha và tiếng Ý, Josep M. Rambla Blanch, S.J.,
dẫn nhập, chú thích và bình giảng, Mensajero -
Sal Terrae 1998.
Trở về Nội Dung