98. Từ Roma, người lữ khách đi Monte Cassinô để hướng dẫn
Linh Thao cho tiến sĩ Ortiz và ở lại đấy bốn mươi ngày.
Trong thời gian đó, một hôm ông thấy Hoces đang vào Thiên
đàng, thì ông thấy tâm hồn phấn khởi hết sức và nước mắt
tràn ra. Nếu nói khác, ông nhận thấy đó là nói dối. Từ Monte
Cassinô trở về, ông đem theo Phanxicô Estrađa. Về Roma, ông
ra sức giúp đỡ các linh hồn. Thời đó, các bạn còn ở lại vườn
nho, ông hướng dẫn Linh Thao cho một số người cùng một lúc.
Trong đó, có một người ở gần nhà thờ Đức Bà Cả và một người
ở gần cầu Sixtô.
Sau đó
ông bắt đầu gặp chống đối, và Miguel bắt đầu gây rắc rối nói
xấu người lữ khách. I-Nhã làm cho ông ta bị ra toà trước mặt
Tổng Trấn và trình cho ông này coi một lá thư của Miguel,
trong đó có nhiều lời ca tụng người lữ khách. Ông Tổng Trấn
điều tra về Miguel và cuối cùng đuổi ông này ra khỏi Roma.
Sau đó đến lượt Muđarra và Berrêđa. Họ rêu rao rằng người lữ
khách cùng các bạn đã phải trốn khỏi Tây Ban Nha, Paris và
Vênêzia. Cuối cùng, trước mặt ông Tổng Trấn và Sứ Thần lúc
đó đang ở Roma, cả hai đều xác nhận nhóm các bạn đều không
thấy có gì đáng chỉ trích về lối sống cũng như về giáo lý.
Ông Sứ Thần ra lệnh chấm dứt vụ đó, nhưng I-Nhã không bằng
lòng, và đòi phải có bản án đàng hoàng.
Điều này
đã làm phật lòng ông Sứ Thần, ông Tổng Trấn và những người
lúc trước đã ủng hộ người lữ khách. Cuối cùng, vài tháng sau
Đức Giáo Hoàng trở về Roma. Người lữ khách đi gặp Đức Thánh
Cha tại Frascati và trình bày mọi lý lẽ. Đức Thánh Cha trực
tiếp lo vấn đề và ra lệnh cho làm bản án; bản án ủng hộ
I-Nhã. Tại Roma, người ta thực hiện một số việc bác ái với
sự giúp đỡ của người lữ khách và các bạn, như việc dạy đạo
tại nhà Thánh Marta, và nhà các cô nhi. Còn về những chuyện
khác Nadal có thể kể thêm.
99. Sau khi kể tất cả các việc trên, ngày 20 tháng 10 tôi đã
hỏi người lữ khách về Linh Thao và hiến pháp để tìm hiểu Cha
đã soạn thảo hai tài liệu đó như thế nào. Cha trả lời Linh
Thao không được soạn liên tục, nhưng mỗi lần Cha nhận xét
thấy điều gì trong tâm hồn có ích lợi và có thể giúp được
người khác, thì Cha viết ra, thí dụ cách thức ghi việc xét
mình trên các vạch ngang. Riêng về cách chọn lựa, Cha đã nói
với tôi rằng Cha đã rút ra từ những thay đổi trong tâm hồn
và tư tưởng từ khi còn ở Loyola, lúc còn đau chân. Về hiến
pháp Cha nói tối nay sẽ kể chuyện.
Ngày hôm
đó, trước cơm tối Cha gọi tôi. Cha có vẻ như đang cầm trí
hơn lúc bình thường, và một lúc lâu như là để thanh minh,
Cha nói rằng: khi kể các chuyện trên, Cha chỉ có ý ngay lành
và đơn sơ, và bảo đảm chắc chắn Cha không thêu dệt thêm điều
gì. Cha nói thêm rằng từ khi bắt đầu phụng sự Chúa, Cha đã
xúc phạm đến Chúa nhiều lần, nhưng không bao giờ Cha cố ý
phạm tội trọng mà trái lại Cha càng thêm sốt sắng, nghĩa là
ngày càng tìm thấy Chúa dễ dàng. Lần nào, lúc nào muốn gặp
Chúa, Cha được gặp ngay. Lúc này, Cha vẫn có nhiều thị kiến
đặc biệt như đã kể trước, thấy Chúa Kitô như hình mặt trời.
Cha hay thấy các thị kiến này như khi Cha bàn luận về các
công việc quan trọng: thị kiến này chuẩn xác các quyết định.
100. Lúc làm Lễ hay có thị kiến và khi soạn thảo hiến pháp
thì có nhiều thị kiến. Điều này có thể
xác định chắc chắn,
bởi vì mỗi ngày Cha đều viết ra những biến chuyển trong tâm
hồn và hiện giờ có đủ các tài liệu đó trong tay. Vậy Cha cho
tôi thấy một chồng giấy khá lớn và đọc cho tôi nghe một phần
đáng kể. Phần nhiều diễn tả các thị kiến xác chuẩn những
điều lệ trong hiến pháp, có khi thấy Chúa Cha, có khi cả Ba
Ngôi, có khi Đức Mẹ đang cầu bầu hoặc đang xác chuẩn các
điều lệ.
Cha kể
chuyện đặc biệt về các điều lệ đã quyết định sau khi làm Lễ
mỗi ngày suốt bốn mươi phút, mỗi lần chảy rất nhiều nước
mắt: Đó là vấn đề các nhà thờ của dòng có nên có nguồn lợi
riêng không?
101. Lúc soạn hiến pháp Cha thường áp dụng phương pháp dưới
đây: Mỗi ngày, Cha dâng lễ, trình bày ý định điều lệ đang
viết và cầu nguyện về điều đó. Mỗi lần dâng Lễ và cầu nguyện
thì không cầm được nước mắt.
Tôi mong
nhìn xem tất cả các giấy tờ viết về Hiến Pháp, và xin Cha để
cho tôi xem một thời gian, nhưng Cha không cho.