92. Thời đó tại Vênêzia, I-Nhã tập trung vào việc hướng dẫn
Linh Thao và nói về các đề tài thiêng liêng. Trong số những
người đáng nhớ nhất đã tập Linh Thao có ông cử nhân Phêrô
Cantarênô, ông cử nhân Gasparô Doctis và một người Tây Ban
Nha nữa là ông tú Hoces. Ông này hay đến nói chuyện với
người lữ khách và cả Giám Mục thành Chieti cũng vậy. Dù
thích tập Linh Thao, ông này vẫn trù trừ. Cuối cùng ông
quyết định bắt đầu, và sau ba, bốn ngày, ông thú thật với
người lữ khách rằng sợ trong Linh Thao sẽ dạy ông một giáo
thuyết nào không tốt theo lời một người nào đó đã nói với
ông như vậy. Vì thế ông đem theo một số sách để tiện tra cứu
trong trường hợp I-Nhã dẫn ông đi lạc hướng. Ông này tập
linh thao có kết quả đáng kể và cuối cùng quyết định theo
lối sống của người lữ khách. Trong số các bạn đồng hành, ông
này là người qua đời trước tiên.
93. Tại Vênêzia, người lữ khách lại bị chống đối vì có tin
đồn rằng hình nộm của ông bị đốt tại Tây Ban Nha và Paris.
Tiếng đồn này lan tràn đến nỗi người lữ khách lại phải ra
tòa nhưng bản án lại bênh vực ông.
Chín
người bạn đã tụ họp tại Vênêzia vào đầu năm 1537 và chia
nhau giúp việc tại các nhà thương. Hai, ba tháng sau tất cả
lên đường đi Roma nhận phép lành của Đức Thánh Cha để đi
Giêrusalem. Tuy nhiên, người lữ khách không đi vì ở đó có
tiến sĩ Ortiz và Hồng Y Têatinô. Nhóm các bạn đem theo chi
phiếu 200 hoặc 300 đồng bạc mà người ta đã cho để đi
Giêrusalem. Họ không lấy tiền mặt nhưng chỉ lấy chi phiếu
thôi. Về sau, vì không đi Giêrusalem được, họ trả lại các
chi phiếu. Họ trở về Vênêzia như lúc đi, họ đi làm ba nhóm,
vừa đi vừa xin ăn. Mỗi nhóm có những người thuộc các quốc
tịch khác nhau. Tại Vênêzia, những người chưa làm linh mục
thì được chịu chức thánh do giấy phép của Sứ Thần Toà Thánh
tại Vênêzia tên là Vêrallô, về sau lên Hồng Y. Họ chịu chức
với tư cách tu sĩ khó nghèo và khấn khiết tịnh nghèo khó.
94. Vì năm đó chính quyền Vênêzia đã đoạn giao với đế quốc
Thổ Nhĩ Kì, nên không có tàu nào đi Trung Đông. Thấy không
có hy vọng đi Giêrusalem trong một tương lai gần, nên các
bạn đã chia nhau đi các vùng xứ Vênêzia mà chờ một năm như
đã dự định trước kia; hết một năm mà vẫn không có tàu thì họ
sẽ đi Roma.
Người lữ
khách trúng thăm đi Vicenza với Favre và Laynez. Tại đó, họ
tìm được một căn nhà ở ngoài thành phố, không có cửa lớn và
cửa sổ, họ kiếm ít rơm về làm giường ngủ. Mỗi ngày hai lần
hai người đi vào thành phố xin ăn, nhưng kiếm được rất ít,
khó mà đủ sống. Họ thường ăn bánh mì khô khi kiếm được,
người nào ở nhà thì lo nấu bánh mì. Họ sống theo kiểu đó
trong bốn mươi ngày, chỉ lo việc cầu nguyện mà thôi.
95. Sau bốn mươi ngày, ông cử nhân Gioan Coduri về tới và cả
bốn người quyết định bắt đầu giảng. Vậy cùng ngày và cùng
giờ, bốn ông vào thành phố, mỗi ông vào phố chợ và bắt đầu
lớn tiếng vừa gọi dân chúng vừa lấy nón ra hiệu mời họ tập
họp nghe lời giảng. Nhờ các bài giảng mà người ta biết tiếng
họ, trở nên đạo đức và cung cấp cho họ phương tiện vật chất
dồi dào hơn trước.
Suốt thời
gian ở Vicenza, người lữ khách có nhiều thị kiến thiêng
liêng và thấy phấn chấn gần như thường xuyên, khác với thời
gian ở Paris. Đặc biệt trong thời gian chuẩn bị chịu chức và
dâng Lễ tại Vênêzia, cũng như trong các chuyến đi đây đó,
nhiều lần ông được các vị khách từ trời viếng thăm, giống
như khi ở Manrêsa.
Khi ở
Vicenza, hay tin một người bạn ở Bassanô đau nặng sắp chết,
mặc dù chính ông lúc đó bị sốt, I-Nhã vẫn lên đường. Ông đi
rất nhanh khiến Favre khó khăn lắm mới đi theo kịp. Trong
chuyến đi, ông được Thiên Chúa bảo đảm người bạn ông sẽ
không chết vì bệnh đó, ông nói như vậy với Favre. Ông tới
Bassanô thì bệnh nhân được an ủi lắm và chẳng bao lâu thì
khoẻ lại. Sau đó, tất cả các bạn tập họp tại Vicenza. Cả
mười người ở chung với nhau trong một thời gian và họ đi ăn
xin tại các làng xã gần đó.
96. Hết năm chờ tàu, mà không đi được nên các bạn đồng hành
quyết định đi Roma. Lần này người lữ khách cũng đi, như lần
trước khi các bạn đi Roma, hai người mà họ e ngại lại tỏ ra
ân cần với họ. Họ chia làm ba, bốn nhóm. Người lữ khách đi
với Favre và Laynez. Trong chuyến này, ông được Thiên Chúa
thăm viếng một cách hết sức đặc biệt.
Ông đã
quyết định sau khi chịu chức linh mục, sẽ không làm Lễ suốt
một năm, để chuẩn bị và cầu xin Đức Mẹ đặt ông đến cùng Chúa
Con. Một hôm khi còn cách xa Roma mấy dặm, đang khi cầu
nguyện trong một nhà thờ, ông nhận thấy một sự thay đổi lớn
lao trong tâm hồn, và thấy rõ ràng Chúa Cha đặt ông cùng
Chúa Kitô, con của Ngài. Ông không thể nào nghi ngờ điều đó
chỉ biết rằng Chúa Cha đặt ông cùng Chúa Con.
97. Rồi lúc tới Roma, ông nói với các bạn ông thấy các cửa
đều đóng lại, có ý muốn nói rằng tại đó, họ sẽ bị chống đối
nhiều. Ông nói thêm: “Chúng ta nên thận trọng, không tiếp
xúc với phụ nữ, trừ người quí phái.” Nói về vấn đền này thì
sau này Phanxicô thường giải tội cho một phụ nữ, và đôi khi
đi thăm bà để hướng dẫn về đời sống đạo đức. Sau một thời
gian bà mang thai. Nhưng nhờ ơn Chúa, người ta tìm ra được
thủ phạm. Gioan Coduri cũng gặp phải một chuyện tương tự,
khi một cô, con thiêng liêng của ông bị bắt quả tang đang ăn
ở với một ông đàn ông.