64. Sau khi I-Nhã tới Salamanca rồi, một hôm đang lúc cầu
nguyện trong một nhà thờ, một phụ nữ đạo đức nhận ra ông, và
bà cho biết bốn người thuộc nhóm ông đã kết nạp đã ở đó mấy
hôm rồi, và đưa ông đến nhà các bạn ở.
Ở Alcala,
khi người ta ra bản án buộc các bạn ăn mặc như sinh viên,
người lữ khách đã nói: “Khi quý ông bảo chúng tôi nhuộm quần
áo thì chúng tôi đã tuân theo. Nhưng bây giờ chúng tôi không
thể tuân theo lệnh của các ông được vì không có phương tiện
mua quần áo mới.” Vậy chính linh mục đại diện đã cho họ quần
áo, nón và tất cả đồ dùng sinh viên. Lúc rời Alcala họ ăn
mặc theo kiểu đó.
Tại Salamanca,
người lữ khách đã nhờ một Cha Dòng Đa Minh thuộc tu viện
Thánh Têphanô làm linh hướng. Mười hai ngày sau khi I-Nhã
tới nơi, Cha linh hướng nói với ông: “Một số Cha trong tu
viện muốn gặp anh.” Ông trả lời: “Vì Danh Chúa con sẽ đến.”
Cha nói thêm: “Vậy thì anh đến dùng bữa trưa ngày Chủ Nhật.
Tôi nói trước cho anh hay các Cha muốn biết rất nhiều chuyện
về anh.”
Ngày Chúa
Nhật, ông đi với Calixtô. Bữa cơm xong, Cha phụ tá viện
trưởng - vì viện trưởng vắng mặt - mời hai Cha khách cùng
Cha linh hướng và hình như một Cha khác nữa vào nhà nguyện.
Cha phụ tá dùng lời lẽ nhã nhặn nói rằng các Cha đã nghe
nhiều điều hay về đời sống đạo đức của các anh và nghe nói
các anh đi rao giảng như các Thánh Tông Đồ. Tuy nhiên, các
Cha muốn được biết tỉ mỉ hơn. Vậy trước tiên Cha hỏi họ đã
học hành đến trình độ nào. Người lữ khách đáp: “Trong nhóm,
tôi là người học nhiều nhất.” Rồi ông nói rõ ràng những điều
ông đã học, cũng như về nền tảng học vấn bấp bênh của ông.
65. Rồi các Cha hỏi tiếp: “Bây giờ xin các anh cho biết các
anh đã giảng những gì?” Người lữ khách đáp: “Chúng tôi không
giảng nhưng nói chuyện đơn sơ với một số người, như các
người mời chúng tôi dùng cơm.” Cha hỏi tiếp: “Được rồi,
nhưng các anh nói về những điều thiêng liêng nào? Đó là
những điều chúng tôi muốn biết.” Người lữ khách đáp: “Có khi
chúng tôi nói về nhân đức này hoặc nhân đức khác và khuyến
khích người ta theo; có khi lại nói về các thói xấu khác
nhau và lên án.” Cha lại nói tiếp: “Các anh không có học, mà
lại nói về các nhân đức và các thói xấu! Người ta chỉ có thể
nói về các đề tài đó hoặc vì đã học hoặc vì Chúa Thánh Thần
soi sáng. Nhưng các anh không có học nên chỉ nói vì có Chúa
Thánh Thần soi sáng. Vậy chúng tôi muốn biết Chúa Thánh Thần
đã soi sáng những gì?” Nghe vậy, I-Nhã bắt đầu dè dặt vì
nhận thấy cách lý luận đó không tốt. (Thánh I-Nhã dè dặt
vì cách lý luận đó cho thấy Cha phụ tá nghi ngờ họ theo phe
lạc giáo Alumbrađô đã bị két án mấy năm trước (1623). Theo
phe này thì quan trọng hơn hết là kết hợp với Chúa Thánh
Thần, khỏi cần theo chỉ thị của hàng giáo phẩm). Im lặng
một lúc, ông lại nói không cần bàn thêm về vấn đề đó nữa.
Nhưng Cha phụ tá nói tiếp: “Sao vậy? Trong lúc tư tưởng của
ông Êrasmô và nhiều người khác đang đầu độc thiên hạ, thì
các anh lại không muốn biện minh cho giáo lý các anh dạy
sao?”
66. Người lữ khách đáp dứt khoát: “Thưa Cha, tôi sẽ không
nói gì thêm trừ khi các bề trên buộc tôi phải nói trước mặt
các ngài.” Trước đó, Cha phụ tá có hỏi tại sao Calixtô lại
ăn mặc như vậy. Anh ta mặc một chiếc áo ngắn, đội một chiếc
nón rộng, cầm một cây gậy và chân đi giầy ống cao đến đầu
gối. Vì anh này có vóc dáng cao nên càng có vẻ vụng về.
Người lữ khách giải thích rằng tại sao ở Alcala họ đã bị bắt
giam và được lệnh ăn mặc như sinh viên, nhưng vì mùa nắng,
anh bạn đã lấy áo rộng nhường cho một sinh viên nghèo. Nghe
vậy, ông Cha nói lẩm bẩm có vẻ không bằng lòng: “Bác ái thì
phải bắt đầu với bản thân chứ!”
Nhưng để
trở lại câu chuyện, thấy rằng không thể bắt người lữ khách
nói thêm điều gì nữa, Cha phụ tá kết luận: “Được rồi, các
anh sẽ ở lại đây. Chúng tôi sẽ tìm cách bắt các anh khai
hết.” Lập tức các Cha vội vàng ra về. Trước đó, người lữ
khách hỏi rằng họ sẽ ở lại trong nhà nguyện hay ở đâu, thì
Cha phụ tá nói phải ở lại nhà nguyện. Khóa tất cả các cửa
rồi, các Cha đi thưa chuyện cùng các thẩm phán. Tuy nhiên,
hai ông ở lại trong tu viện ba ngày, ăn uống tại phòng cơm
của các tu sĩ, nhưng không được biết gì về quyết định của
các thẩm phán đối với họ.
Phòng hai
ông ở luôn luôn có đông các tu sĩ đến thăm. Người lữ khách
vẫn nói về các đề tài đạo đức như thói quen. Hình như các tu
sĩ chia làm hai phe, có nhiều người thông cảm với người lữ
khách.
67. Sau ba ngày có lục sự đến đưa họ tới nhà giam. Họ không
bị nhốt ở phòng dưới với các phạm nhân thường. Nhưng ở trên
lầu trong một phòng cũ kỹ lâu năm không có ai ở nên hết sức
dơ dáy. Cả hai bị xiềng chung bằng một cái xích, mỗi người
bị buộc một chân, và cái xích bị buộc quanh cái cột ở giữa
phòng. Cái xích dài chừng hai thước rưỡi, mỗi khi một trong
hai người làm gì thì người kia cũng phải lết theo. Hôm đó
hai người thức suốt đêm. Sáng sớm hôm sau, khi người ta biết
tin hai người bị giam, thì họ chở tới nhà giam giường ngủ và
đủ mọi thứ đồ dùng cần thiết. Luôn luôn có nhiều người đến
thăm và người lữ khách nói về Chúa và giúp đỡ họ.
Ông Frias
(có bằng tú tài) đến thẩm tra riêng mỗi người. Người lữ
khách trao cho ông tất cả tập vở, tức là bản Linh Thao để
ông xem xét. Khi được hỏi có bạn cùng nhóm không, thì hai
người trả lời có và chỉ chỗ họ ở. Lập tức theo lệnh của ông
tú tài có người đi bắt và đưa vào nhà giam Caceres và
Artêaga; cậu Juniatô không bị bắt, sau đó cậu đi tu. Hai
người không bị nhốt ở phòng trên, nhưng tại phòng dưới với
các phạm nhân khác. Lần này, người lữ khách vẫn không nhờ
luật sư hay trợ tá toà án giúp đỡ.
68. Vài ngày sau, người lữ khách bị điệu đến trước mặt bốn
thẩm phán, gồm ba tiến sĩ là: Santisiđôrô, Paravinhas, Frias
và ông tú Frias. Cả bốn người xem xét bản Linh Thao và dò
hỏi nhiều câu, không những về đề Linh Thao mà còn cả về
những vấn đề thần học nữa. Thí dụ về Thiên Chúa Ba Ngôi và
phép Thánh Thể, để xem hai ông hiểu biết như thế nào.
Trước
hết, người lữ khách xin lỗi với lời khai mở đầu. Tuy nhiên
theo lệnh các thẩm phán ông nói rành mạch, các thẩm phán
không thấy có điều gì đáng trách. Riêng ông tú Frias - trong
vụ tra hỏi thường tỏ vẻ khắt khe hơn những người khác - hỏi
thêm cách thức giải đáp thắc mắc về giáo luật. Hỏi bất cứ
điều gì, người lữ khách vẫn giải đáp, nhưng mỗi lần, ông đều
nói rằng ông không biết các tiến sĩ nghĩ như thế nào về các
vấn đề ấy.
Sau đó,
họ bảo ông cắt nghĩa điều răn thứ nhất theo cách thức ông
hay giảng dạy. Ông bắt đầu ngay và nói dài dòng về điều răn
này. Họ không còn muốn hỏi thêm điều gì nữa.
Trước đó,
khi hỏi về Linh Thao, họ hỏi nhiều lần về một điểm, và chỉ
hỏi về điểm đó thôi. Trình bày trong các phần đầu linh thao:
“Một tư tưởng xấu, lúc nào là tội trọng, lúc nào là tội
nhẹ?” Họ muốn xem ông không có học, làm sao quyết định được
vấn đề đó. Ông trả lời: “Tôi nói phải hay trái, tùy các ông
định liệu. Nếu tôi nói không phải thì các ông cứ kết án lời
tôi.” Cuối cùng họ được đưa về nhà giam và không ai bị kết
án điều gì.
69. Trong số những người đến thăm người lữ khách tại nhà
giam, một hôm có Cha Phanxicô Menđôza, hiện là Hồng Y thành
phố Burgos, đi với ông tú Frias. Ông thân mật hỏi I-Nhã ở tù
thấy làm sao, có lấy làm khó chịu không? I-Nhã trả lời: “Hôm
nay có một bà thấy tôi ở tù, bà nói lời thương xót. Tôi có
thể trả lời Cha như đã trả lời bà ấy rằng: Nói như vậy, bà
chứng tỏ không thích ở tù vì lòng mến Chúa. Tù đâu phải là
một tai họa. Nói thật với bà tại Salamanca có bao nhiêu
xiềng xích, vẫn chưa đủ để tôi ao ước chịu đựng hầu tỏ lòng
mến Chúa.”
Hồi đó,
có một lần tất cả các tù nhân đều vượt ngục, trừ người lữ
khách và người bạn không chịu vượt ngục. Sáng hôm sau, người
ta thấy hai ông ngồi trước một cánh cửa mở toang không còn
người nào khác. Vụ đó đã gây xôn xao trong thành phố, khiến
nhiều người thán phục. Lập tức người ta dành cho họ cả một
nhà lầu lớn gần đó làm nhà giam.
70. Sau khi bị tù hai mươi hai ngày, họ được mời để nghe bản
án. Trong lối sống cũng như trong giáo lý của họ không tìm
thấy lỗi lầm nào. Vậy họ được tiếp tục giảng dạy giáo lý và
nói về Chúa như trước, với điều kiện không được bao giờ quả
quyết: “Đây là tội trọng, đây là tội nhẹ.” Đó là thời gian
bốn năm phải học thêm nữa.
Sau khi
đọc bản án, vì muốn hai ông tuân theo, nên các thẩm phán tỏ
ra rất ân cần với họ. Người lữ khách nói rằng: họ sẽ tuân
phục bản án nhưng không đồng ý, bởi vì mặc dù không lên án
họ về điểm nào, nhưng ngăn cản không cho phép họ nói để giúp
đỡ tha nhân theo khả năng của họ. Tiến sĩ Frias tỏ ra xúc
động và cố gắng thuyết phục hai ông. Nhưng người lữ khách
không bàn thêm điều gì nữa, chỉ nói rằng họ sẽ tuân theo bản
án bao lâu còn trong địa phận Salamanca mà thôi.
Ngay sau
khi rời khỏi nhà giam, người lữ khách bắt đầu suy nghĩ và
cầu nguyện xin Chúa chỉ cách giải quyết vấn đề. Ở lại
Salamanca thì ông sẽ gặp khó khăn: muốn giúp đỡ các linh hồn
thì gặp trở ngại vì lệnh không cho quyết định đâu là tội
trọng đâu là tội nhẹ.
71. Do đó ông quyết định đi Paris học. Tại Barcelôna, khi
suy xét có nên học hành và học trong thời gian bao lâu. Tuy
nhiên, vấn đề chính là, sau khi học xong, ông có nên đi tu
hay đi khắp thiên hạ? Lúc có ý đi tu ông nghĩ ngay đến một
dòng nào suy đồi và chưa cải tổ, cốt là để gặp nhiều thử
thách, đồng thời nghĩ có lẽ Chúa cũng sẽ giúp đỡ các tu sĩ,
và Chúa cũng sẽ giúp ông tin tưởng và sẽ đủ nghị lực để chịu
đựng mọi sỉ nhục và xúc phạm sẽ gặp phải.
Suốt thời
gian tại Salamanca, ông vẫn ao ước giúp đỡ các linh hồn. Và
để làm việc đó, được học hành thêm cũng như qui tụ thêm một
số bạn bè cùng chia sẻ lý tưởng đó, cùng với những người đã
theo ông rồi. Sau khi quyết định đi Paris, ông điều đình với
các bạn để họ chờ tại chỗ trong khi ông đi xem có tìm được
phương tiện để mọi người học hành được không.
72. Nhiều người có địa vị cố thuyết phục ông đừng đi nhưng
vô ích. Lối chừng mười lăm, hai mươi ngày sau khi ra tù, ông
lên đường một mình kéo theo một con lừa nhỏ chở ít sách trên
lưng. Tới Barcelôna, tất cả những người quen tìm cách thuyết
phục ông đừng đi sang Pháp vì chiến tranh đang diễn ra tại
đó. Họ kể cho ông nghe nhiều chuyện cụ thể và còn nói rằng ở
đó người ta nướng người Tây Ban Nha, nhưng ông không hề cảm
thấy sợ sệt.