38. Suốt chuyến tàu từ Barcelôna tới Gaeta gió thuận thổi
rất mạnh, tàu tới nơi trong vòng năm ngày đêm, dù tất cả mọi
người đều rất sợ vì bão lớn. Khắp vùng đó người ta sợ dịch
hạch, nhưng I-Nhã xuống tàu và đi Roma ngay. Trong số hành
khách trên tàu có một người đàn bà với một cô gái mặc quần
áo con trai và một thanh niên cùng đi với ông. Họ theo ông
vì họ cũng vừa đi vừa xin ăn.
Tới một
nông trại, họ thấy có đông lính đứng chung quanh và một đống
lửa. Lính mời họ ăn uống và nài ép họ uống rượu như muốn cho
họ say. Rồi lính chia ra nhóm, cho người mẹ và cô gái lên
lầu, người lữ khách và thanh niên ở dưới chuồng ngựa. Vào
chừng nửa đêm, ông ra ngoài thì thấy hai mẹ con bà kia chạy
tới khóc lóc kể rằng lính toan hãm hiếp họ. Ông nổi giận
thét lớn: “Chuyện này không thể nào chịu đựng được,” và
những câu tương tự khác. Ông nói đanh thép đến nỗi mọi người
đều khiếp sợ và không ai dám làm gì ông, trong khi đó chàng
thanh niên đã chạy mất rồi, còn lại ba người lên đường ngay
giữa đêm hôm ấy.
39. Tới một thành ở gần đó thì họ thấy cửa thành đã khóa
kín. Vì không sao vào được, nên họ đành ngủ đêm trong một
nhà thờ gần đó có nước mưa lùa vào. Sáng hôm sau, dân chúng
trong thành cũng không cho họ vào. Ở ngoài thành họ không
kiếm được gì ăn, dù họ đã tới xin trọ một nông trại không xa
thành. Tại đó, người lữ khách cảm thấy kiệt sức, một phần vì
chuyến tàu vất vả, một phần vì những chuyện khác đã xảy ra.
Không đi được nữa, ông đành phải ở lại đó, và hai mẹ con bà
kia lên đường đi Roma.
Ngày hôm
đó nhiều người ra khỏi thành. Nghe nói bà chủ đất đó sắp
tới, ông ra đón bà, bảo đảm với bà rằng ông chỉ đau vì kiệt
sức thôi, và xin bà cho phép vào thành để tìm cách dưỡng
sức. Bà cho phép ngay, ông liền vào thành hành khất và kiếm
được khá nhiều. Nghỉ tại đó hai ngày để lấy lại sức, ông lại
lên đường và tới Roma vào ngày Chúa Nhật Lễ Lá.
40. Tại đó, người ta gặp ông và nghe ông nói không có một
đồng xu nào trả tiền lên tầu đi Giêrusalem thì họ đưa ra
nhiều lý lẽ cho ông hiểu rằng, nếu không có tiền, thì đừng
hòng lên tàu đi Giêrusalem được. Tuy nhiên, ông xác tín mãnh
liệt không do dự chút nào rằng ông sẽ tìm được cách đi
Giêrusalem. Tám chín ngày sau Lễ Phục Sinh, sau khi được Đức
Giáo Hoàng Adrianô VI ban phép lành, ông lên đường đi
Vênêzia. Ông mang theo sáu, bảy đồng tiền vàng, người ta cho
ông số tiền đó để trả vé tàu đi Giêrusalem. Ông bằng lòng
lấy vì họ làm ông sợ nếu không có tiền thì không đi được.
Nhưng sau
hai ngày rời khỏi Roma, ông thấy rằng mình đã bằng lòng lấy
tiền chỉ vì thiếu lòng tin và hết sức hối hận. Ông tự hỏi có
nên bỏ lại không. Rốt cuộc ông phân phát rộng rãi cho những
người ông gặp, thường là những người nghèo, và phân phát gần
hết. Khi gần tới thành phố Vênêzia ông chỉ còn vài chục đồng
cắc. Tối hôm đó, chút đỉnh tiền cắc đã giúp ông rất nhiều.
41. Suốt buổi hành trình đi đến Vênêzia, ông phải ngủ ở
ngoài đường, bởi vì người ta dùng mọi biện pháp đề phòng
dịch hạch. Một buổi sáng tỉnh dậy, ông thấy đang nằm sát một
người, người này bỗng nhiên đứng dậy và hốt hoảng chạy mất.
Có lẽ vì thấy người lữ khách mặt xanh nhợt giống như người
mắc dịch.
Đi tới
Chioggia cùng với một số người khác, I-Nhã được biết người
ta sẽ không cho vào thành phố Vênêzia. Cả nhóm quyết định đi
Pađôva để lấy chứng chỉ sức khỏe. Người lữ khách đi theo họ
nhưng không theo kịp vì họ đi nhanh. Thế là họ bỏ ông bên
một cánh đồng khi trời gần tối.
Tại đó
Chúa hiện ra cho ông như mọi khi, khiến ông được an ủi rất
nhiều. Vững tâm, sáng hôm sau, ông tới thành Pađôva dù không
làm giấy giả để vào thành mà vẫn vào thành được ngay. Lính
gác đã không hỏi điều gì, lúc trở ra cũng vậy. Những người
đồng hành hết sức ngạc nhiên. Họ đã lấy giấy sức khoẻ trong
khi I-Nhã đã không hề bận tâm gì tới điều đó.
42. Khi tới Vênêzia, thì lính tới xét giấy của từng không
nhưng không ai đụng đến ông. Tại Vênêzia, ông xin ăn và ngủ
đêm tại công trường Thánh Marcô. Không lần nào ông tới nhà
ông đại sứ của hoàng đế, và cũng chẳng quan tâm đến việc tìm
phương tiện qua biển đi Giêrusalem. Xác tín vững vàng rằng
Thiên Chúa sẽ lo cho, và không hề nghi ngờ dù người ta đưa
ra nhiều lý do và đặt nhiều nghi vấn.
Một hôm
ông tình cờ gặp một người Tây Ban Nha giầu có, người này hỏi
ông định làm gì và định đi đâu. Biết ý định của I-Nhã, ông
này mời ông về nhà dùng bữa và lưu lại ít hôm chờ ngày lên
tàu. Từ khi còn ở Manrêsa, người lữ khách đã tập thói quen
lúc dùng cơm không nói chuyện gì mà chỉ trả lời vắn tắt
thôi. Nhưng nghe kỹ câu chuyện và để ý đến một số vấn đề,
rồi sau bữa ăn, mới tìm cơ hội nói chuyện với người ta về
Thiên Chúa. Mỗi lần dùng bữa, ông thường làm như vậy.
43. Nhờ thói quen đó mà người trong nhà rất quý mến I-Nhã và
nài ép ông ở lại luôn. Ông chủ nhà này đã dàn xếp cho I-Nhã
yết kiến lãnh chúa thành phố Vênêzia. Sau khi nói chuyện với
người lữ khách, lãnh chúa thành phố đã truyền cho tầu trấn
thủ đi tới đảo Cyprus cho I-Nhã đi theo.
Năm đó
rất đông người hành hương tập họp tại Vênêzia để lên tàu đi
tới Giêrusalem. Nhưng phần đông phải quay về không đi được
vì tình trạng mới, sau khi đảo Rhodes bị thất thủ. Một tàu
chỉ chở tối đa 13 người hành hương thôi. Còn tàu trấn thủ
thì chỉ chở 8, 9 người thôi.
Khi tàu
trấn thủ sắp khởi hành, người lữ khách bị đau sốt nặng ít
ngày rồi khoẻ lại. Vào ngày tàu nhổ neo I-Nhã lại uống thuốc
sổ. Người nhà hỏi y sĩ xem ông có thể lên tàu đi Giêrusalem
được không. Y sĩ trả lời rằng nếu muốn đi để được chôn cất
tại đó thì được lắm. Tuy nhiên I-Nhã vẫn lên tàu hôm đó và
đi liền. Ông ói mửa nhiều, thấy đỡ và bắt đầu khỏi hẳn.
Trên tàu
người ta làm nhiều chuyện bậy bạ dơ bẩn công khai, I-Nhã
khiển trách họ nghiêm khắc.
44. Những người Tây Ban Nha khuyên ông không nên nói gì, vì
các thủy thủ định bỏ ông trên một đảo hoang. Nhưng Chúa đã
thương cho tàu tới Cyprus an toàn. Xuống tàu, hành khách đi
đường bộ đến một bến khách gọi là Salinas cách đó khoảng 10
dặm và lên tàu hành hương. Trên tàu này I-Nhã không đem theo
lương thực gì trừ niềm hy vọng nơi Thiên Chúa như trong
chuyến trước.
Suốt thời
gian này, Chúa đã hiện ra cho ông nhiều lần, khiến ông cảm
thấy phấn khởi và vững tin. Ông thấy một vật gì tròn lớn
giống như vàng. Ông thấy như vậy từ khi tàu rời Cyprus đến
khi tàu cập bến ở Giapha.
Trên
đường đi Giêrusalem, theo phong tục họ cưỡi lừa con. Khi tới
chỗ cách thành phố chừng hai chục dặm, một người Tây Ban
Nha, hình như thuộc dòng quí tộc tên là Điêgô Manes, sốt
sắng nói với đám người hành hương hãy chuẩn bị tâm hồn và
giữ thinh lặng bởi vì sắp đến chỗ có thể trông thấy Thành
Thánh.
45. Mọi người thấy đó là ý kiến hay, nên tất cả đều cầm trí.
Trước khi tới nơi có thể trông thấy Thành Giêrusalem, họ
thấy các tu sĩ tay cầm Thánh giá đang đứng chờ họ, mọi người
xuống lừa đi bộ. Lúc trông thấy thành phố, người lữ khách
cảm thấy hết sức phấn khởi và vui vẻ khác với cảm tưởng vui
vẻ tự nhiên. Mọi người cũng đều cảm thấy như vậy. Mỗi lần đi
viếng các nơi thánh ông cũng đều cảm thấy thế.
I-Nhã có
ý định ở lại Giêrusalem để viếng các nơi Thánh và đồng thời
giúp đỡ các linh hồn. Vì thế ông đã đem theo sẵn vài lá thư
giới thiệu với các Cha bề trên dòng. Ông trình các thư cho
Cha bề trên và tỏ ý định ở lại thành phố vì lòng đạo đức.
Tuy nhiên về việc kia là giúp các linh hồn, ông không nói gì
cả. Bởi vì ông không trình bày điều này với ai bao giờ,
trong khi điều thứ nhất ông đã nói với nhiều người rồi.
Cha bề
trên trả lời rằng ông không thấy có cách nào để I-Nhã ở lại.
Bởi vì tu viện quá thiếu thốn không đủ nuôi các tu sĩ hiện
có, và do đó ông đã quyết định gửi về âu châu một số người
cùng một chuyến với các người hành hương. Người lữ khách trả
lời rằng ông không muốn nhờ tu viện điều gì trừ việc thỉnh
thoảng giải tội cho ông. Bề trên trả lời nếu thế thì được,
nhưng yêu cầu ông đợi Cha bề trên giám tỉnh từ trụ sở của
dòng ở Giêrusalem đến thăm.
46. Vì lời hứa đó, ông lữ khách cảm thấy vững tâm và bắt đầu
viết thư cho một số người đạo đức tại Barcêlôna. Hôm trước
ngày những người hành hương khởi hành trở về, ông đã viết
xong một bức thư và đang viết thêm một bức nữa thì có người
đến mời ông vào gặp Cha giám tỉnh mới tới và Cha bề trên.
Cha giám
tỉnh dùng lời lẽ nhã nhặn nói rằng đã nghe ý định của I-Nhã
ở lại Đất Thánh, Cha đã cân nhắc điều đó kỹ lưỡng và theo
kinh nghiệm của những người đến trước, Cha xét thấy rằng
không tiện. Cha đã cho nhiều người quyết định ở lại, nhưng
người này bị bắt người kia chết. Ngoài ra dòng còn phải
chuộc lại những người bị bắt. Do đó, Cha yêu cầu I-Nhã chuẩn
bị lên đường ngày hôm sau với nhóm hành hương. Ông trả lời
ông đã nhất quyết rồi và sẽ không thay đổi ý kiến vì bất cứ
lý do gì. Ông dùng lời hoà nhã để Cha giám tỉnh hiểu rằng,
dù Cha không bằng lòng ông cũng sẽ không bỏ ý định và sẽ
không sợ bất cứ lời đe doạ nào trừ khi có lệnh buộc lương
tâm thôi.
Nghe vậy,
Cha giám tỉnh cho ông hay Cha có văn thư Tòa Thánh ủy quyền
cho Cha ra lệnh trục xuất, hoặc cho phép ở lại những người
Cha muốn và rút phép thông công những người không vâng lời.
Trong trường hợp người lữ khách Cha cho rằng ông không được
ở lại.
47. Vì Cha tỏ ý muốn đưa văn thư của Tòa Thánh uỷ quyền rút
phép thông công cho ông coi, thì ông nói ông tin lời hai Cha
đáng kính, khỏi cần coi văn thư. Vì Tòa Thánh phán xét như
thế nên ông vâng theo.
Xong vụ
này rồi, đang khi về nhà trọ I-Nhã cảm thấy ước ao viếng Núi
Cây Dầu một lần chót trước khi ra đi, bởi vì Chúa không muốn
ông ở lại Đất Thánh. Trên núi có một phiến đá Chúa đã đứng
trước khi lên trời, ngày nay còn được thấy dấu chân của
Chúa. Ông muốn trở lại coi dấu chân của Chúa. Không nói gì
với ai và không nhờ người hướng dẫn, ông lén lút bỏ đám
người hành hương và tới núi cây dầu một mình.
Lính gác
không muốn cho ông vào, ông cho họ một con dao nhỏ mang
theo. Sau khi đọc kinh rất sốt sáng ông lại nảy ý định muốn
đi tới Betphage và ông đi liền. Tại đó ông mới nhớ ra rằng
khi ở trên núi cây dầu, ông đã quên không nhìn kỹ dấu chân
Chúa hướng về phía nào, nên ông trở lại coi. Lần này, hình
như ông cho lính gác cái kéo để họ cho vào.
48. Ở tu viện người ta khám phá ông đi một mình, các tu sĩ
lo lắng sai người đi tìm. Đang khi từ trên núi cây dầu
xuống, ông gặp một người thắt đai giúp việc tại tu viện. Ông
này cầm một cây gậy to tướng với vẻ mặt hung dữ như muốn
đánh. Tới gần I-Nhã, ông ta tóm lấy, nắm chặt lấy tay kéo
theo. I-Nhã không chống cự nhưng người này vẫn cứ nắm chặt
và kéo. Trong khi đi như thế về tới tu viện, I-Nhã được thấy
Chúa liên miên như từ trên cao và lòng cảm thấy tràn đầy
hạnh phúc.
Tiếp theo:
Chương 5 - Đường Trở Về 1523-1524