CHƯƠNG 4

HÀNH HƯƠNG ĐẾN THÁNH ĐỊA

1523

 38. Suốt chuyến tàu từ Barcelôna tới Gaeta gió thuận thổi rất mạnh, tàu tới nơi trong vòng năm ngày đêm, dù tất cả mọi người đều rất sợ vì bão lớn. Khắp vùng đó người ta sợ dịch hạch, nhưng I-Nhã xuống tàu và đi Roma ngay. Trong số hành khách trên tàu có một người đàn bà với một cô gái mặc quần áo con trai và một thanh niên cùng đi với ông. Họ theo ông vì họ cũng vừa đi vừa xin ăn.

     Tới một nông trại, họ thấy có đông lính đứng chung quanh và một đống lửa. Lính mời họ ăn uống và nài ép họ uống rượu như muốn cho họ say. Rồi lính chia ra nhóm, cho người mẹ và cô gái lên lầu, người lữ khách và thanh niên ở dưới chuồng ngựa. Vào chừng nửa đêm, ông ra ngoài thì thấy hai mẹ con bà kia chạy tới khóc lóc kể rằng lính toan hãm hiếp họ. Ông nổi giận thét lớn: “Chuyện này không thể nào chịu đựng được,” và những câu tương tự khác. Ông nói đanh thép đến nỗi mọi người đều khiếp sợ và không ai dám làm gì ông, trong khi đó chàng thanh niên đã chạy mất rồi, còn lại ba người lên đường ngay giữa đêm hôm ấy.

39. Tới một thành ở gần đó thì họ thấy cửa thành đã khóa kín. Vì không sao vào được, nên họ đành ngủ đêm trong một nhà thờ gần đó có nước mưa lùa vào. Sáng hôm sau, dân chúng trong thành cũng không cho họ vào. Ở ngoài thành họ không kiếm được gì ăn, dù họ đã tới xin trọ một nông trại không xa thành. Tại đó, người lữ khách cảm thấy kiệt sức, một phần vì chuyến tàu vất vả, một phần vì những chuyện khác đã xảy ra. Không đi được nữa, ông đành phải ở lại đó, và hai mẹ con bà kia lên đường đi Roma.

     Ngày hôm đó nhiều người ra khỏi thành. Nghe nói bà chủ đất đó sắp tới, ông ra đón bà, bảo đảm với bà rằng ông chỉ đau vì kiệt sức thôi, và xin bà cho phép vào thành để tìm cách dưỡng sức. Bà cho phép ngay, ông liền vào thành hành khất và kiếm được khá nhiều. Nghỉ tại đó hai ngày để lấy lại sức, ông lại lên đường và tới Roma vào ngày Chúa Nhật Lễ Lá.

40. Tại đó, người ta gặp ông và nghe ông nói không có một đồng xu nào trả tiền lên tầu đi Giêrusalem thì họ đưa ra nhiều lý lẽ cho ông hiểu rằng, nếu không có tiền, thì đừng hòng lên tàu đi Giêrusalem được. Tuy nhiên, ông xác tín mãnh liệt không do dự chút nào rằng ông sẽ tìm được cách đi Giêrusalem. Tám chín ngày sau Lễ Phục Sinh, sau khi được Đức Giáo Hoàng Adrianô VI ban phép lành, ông lên đường đi Vênêzia. Ông mang theo sáu, bảy đồng tiền vàng, người ta cho ông số tiền đó để trả vé tàu đi Giêrusalem. Ông bằng lòng lấy vì họ làm ông sợ nếu không có tiền thì không đi được.

     Nhưng sau hai ngày rời khỏi Roma, ông thấy rằng mình đã bằng lòng lấy tiền chỉ vì thiếu lòng tin và hết sức hối hận. Ông tự hỏi có nên bỏ lại không. Rốt cuộc ông phân phát rộng rãi cho những người ông gặp, thường là những người nghèo, và phân phát gần hết. Khi gần tới thành phố Vênêzia ông chỉ còn vài chục đồng cắc. Tối hôm đó, chút đỉnh tiền cắc đã giúp ông rất nhiều.

41. Suốt buổi hành trình đi đến Vênêzia, ông phải ngủ ở ngoài đường, bởi vì người ta dùng mọi biện pháp đề phòng dịch hạch. Một buổi sáng tỉnh dậy, ông thấy đang nằm sát một người, người này bỗng nhiên đứng dậy và hốt hoảng chạy mất. Có lẽ vì thấy người lữ khách mặt xanh nhợt giống như người mắc dịch.

     Đi tới Chioggia cùng với một số người khác, I-Nhã được biết người ta sẽ không cho vào thành phố Vênêzia. Cả nhóm quyết định đi Pađôva để lấy chứng chỉ sức khỏe. Người lữ khách đi theo họ nhưng không theo kịp vì họ đi nhanh. Thế là họ bỏ ông bên một cánh đồng khi trời gần tối.

     Tại đó Chúa hiện ra cho ông như mọi khi, khiến ông được an ủi rất nhiều. Vững tâm, sáng hôm sau, ông tới thành Pađôva dù không làm giấy giả để vào thành mà vẫn vào thành được ngay. Lính gác đã không hỏi điều gì, lúc trở ra cũng vậy. Những người đồng hành hết sức ngạc nhiên. Họ đã lấy giấy sức khoẻ trong khi I-Nhã đã không hề bận tâm gì tới điều đó.

42. Khi tới Vênêzia, thì lính tới xét giấy của từng không nhưng không ai đụng đến ông. Tại Vênêzia, ông xin ăn và ngủ đêm tại công trường Thánh Marcô. Không lần nào ông tới nhà ông đại sứ của hoàng đế, và cũng chẳng quan tâm đến việc tìm phương tiện qua biển đi Giêrusalem. Xác tín vững vàng rằng Thiên Chúa sẽ lo cho, và không hề nghi ngờ dù người ta đưa ra nhiều lý do và đặt nhiều nghi vấn.

     Một hôm ông tình cờ gặp một người Tây Ban Nha giầu có, người này hỏi ông định làm gì và định đi đâu. Biết ý định của I-Nhã, ông này mời ông về nhà dùng bữa và lưu lại ít hôm chờ ngày lên tàu. Từ khi còn ở Manrêsa, người lữ khách đã tập thói quen lúc dùng cơm không nói chuyện gì mà chỉ trả lời vắn tắt thôi. Nhưng nghe kỹ câu chuyện và để ý đến một số vấn đề, rồi sau bữa ăn, mới tìm cơ hội nói chuyện với người ta về Thiên Chúa. Mỗi lần dùng bữa, ông thường làm như vậy.

43. Nhờ thói quen đó mà người trong nhà rất quý mến I-Nhã và nài ép ông ở lại luôn. Ông chủ nhà này đã dàn xếp cho I-Nhã yết kiến lãnh chúa thành phố Vênêzia. Sau khi nói chuyện với người lữ khách, lãnh chúa thành phố đã truyền cho tầu trấn thủ đi tới đảo Cyprus cho I-Nhã đi theo.

     Năm đó rất đông người hành hương tập họp tại Vênêzia để lên tàu đi tới Giêrusalem. Nhưng phần đông phải quay về không đi được vì tình trạng mới, sau khi đảo Rhodes bị thất thủ. Một tàu chỉ chở tối đa 13 người hành hương thôi. Còn tàu trấn thủ thì chỉ chở 8, 9 người thôi. 

     Khi tàu trấn thủ sắp khởi hành, người lữ khách bị đau sốt nặng ít ngày rồi khoẻ lại. Vào ngày tàu nhổ neo I-Nhã lại uống thuốc sổ. Người nhà hỏi y sĩ xem ông có thể lên tàu đi Giêrusalem được không. Y sĩ trả lời rằng nếu muốn đi để được chôn cất tại đó thì được lắm. Tuy nhiên I-Nhã vẫn lên tàu hôm đó và đi liền. Ông ói mửa nhiều, thấy đỡ và bắt đầu khỏi hẳn. 

     Trên tàu người ta làm nhiều chuyện bậy bạ dơ bẩn công khai, I-Nhã khiển trách họ nghiêm khắc.

44. Những người Tây Ban Nha khuyên ông không nên nói gì, vì các thủy thủ định bỏ ông trên một đảo hoang. Nhưng Chúa đã thương cho tàu tới Cyprus an toàn. Xuống tàu, hành khách đi đường bộ đến một bến khách gọi là Salinas cách đó khoảng 10 dặm và lên tàu hành hương. Trên tàu này I-Nhã không đem theo lương thực gì trừ niềm hy vọng nơi Thiên Chúa như trong chuyến trước.

     Suốt thời gian này, Chúa đã hiện ra cho ông nhiều lần, khiến ông cảm thấy phấn khởi và vững tin. Ông thấy một vật gì tròn lớn giống như vàng. Ông thấy như vậy từ khi tàu rời Cyprus đến khi tàu cập bến ở Giapha.

     Trên đường đi Giêrusalem, theo phong tục họ cưỡi lừa con. Khi tới chỗ cách thành phố chừng hai chục dặm, một người Tây Ban Nha, hình như thuộc dòng quí tộc tên là Điêgô Manes, sốt sắng nói với đám người hành hương hãy chuẩn bị tâm hồn và giữ thinh lặng bởi vì sắp đến chỗ có thể trông thấy Thành Thánh.

45. Mọi người thấy đó là ý kiến hay, nên tất cả đều cầm trí. Trước khi tới nơi có thể trông thấy Thành Giêrusalem, họ thấy các tu sĩ tay cầm Thánh giá đang đứng chờ họ, mọi người xuống lừa đi bộ. Lúc trông thấy thành phố, người lữ khách cảm thấy hết sức phấn khởi và vui vẻ khác với cảm tưởng vui vẻ tự nhiên. Mọi người cũng đều cảm thấy như vậy. Mỗi lần đi viếng các nơi thánh ông cũng đều cảm thấy thế.

     I-Nhã có ý định ở lại Giêrusalem để viếng các nơi Thánh và đồng thời giúp đỡ các linh hồn. Vì thế ông đã đem theo sẵn vài lá thư giới thiệu với các Cha bề trên dòng. Ông trình các thư cho Cha bề trên và tỏ ý định ở lại thành phố vì lòng đạo đức. Tuy nhiên về việc kia là giúp các linh hồn, ông không nói gì cả. Bởi vì ông không trình bày điều này với ai bao giờ, trong khi điều thứ nhất ông đã nói với nhiều người rồi.

     Cha bề trên trả lời rằng ông không thấy có cách nào để I-Nhã ở lại. Bởi vì tu viện quá thiếu thốn không đủ nuôi các tu sĩ hiện có, và do đó ông đã quyết định gửi về âu châu một số người cùng một chuyến với các người hành hương. Người lữ khách trả lời rằng ông không muốn nhờ tu viện điều gì trừ việc thỉnh thoảng giải tội cho ông. Bề trên trả lời nếu thế thì được, nhưng yêu cầu ông đợi Cha bề trên giám tỉnh từ trụ sở của dòng ở Giêrusalem đến thăm.

46. Vì lời hứa đó, ông lữ khách cảm thấy vững tâm và bắt đầu viết thư cho một số người đạo đức tại Barcêlôna. Hôm trước ngày những người hành hương khởi hành trở về, ông đã viết xong một bức thư và đang viết thêm một bức nữa thì có người đến mời ông vào gặp Cha giám tỉnh mới tới và Cha bề trên.

     Cha giám tỉnh dùng lời lẽ nhã nhặn nói rằng đã nghe ý định của I-Nhã ở lại Đất Thánh, Cha đã cân nhắc điều đó kỹ lưỡng và theo kinh nghiệm của những người đến trước, Cha xét thấy rằng không tiện. Cha đã cho nhiều người quyết định ở lại, nhưng người này bị bắt người kia chết. Ngoài ra dòng còn phải chuộc lại những người bị bắt. Do đó, Cha yêu cầu I-Nhã chuẩn bị lên đường ngày hôm sau với nhóm hành hương. Ông trả lời ông đã nhất quyết rồi và sẽ không thay đổi ý kiến vì bất cứ lý do gì. Ông dùng lời hoà nhã để Cha giám tỉnh hiểu rằng, dù Cha không bằng lòng ông cũng sẽ không bỏ ý định và sẽ không sợ bất cứ lời đe doạ nào trừ khi có lệnh buộc lương tâm thôi.

     Nghe vậy, Cha giám tỉnh cho ông hay Cha có văn thư Tòa Thánh ủy quyền cho Cha ra lệnh trục xuất, hoặc cho phép ở lại những người Cha muốn và rút phép thông công những người không vâng lời. Trong trường hợp người lữ khách Cha cho rằng ông không được ở lại.

47. Vì Cha tỏ ý muốn đưa văn thư của Tòa Thánh uỷ quyền rút phép thông công cho ông coi, thì ông nói ông tin lời hai Cha đáng kính, khỏi cần coi văn thư. Vì Tòa Thánh phán xét như thế nên ông vâng theo.

     Xong vụ này rồi, đang khi về nhà trọ I-Nhã cảm thấy ước ao viếng Núi Cây Dầu một lần chót trước khi ra đi, bởi vì Chúa không muốn ông ở lại Đất Thánh. Trên núi có một phiến đá Chúa đã đứng trước khi lên trời, ngày nay còn được thấy dấu chân của Chúa. Ông muốn trở lại coi dấu chân của Chúa. Không nói gì với ai và không nhờ người hướng dẫn, ông lén lút bỏ đám người hành hương và tới núi cây dầu một mình.

     Lính gác không muốn cho ông vào, ông cho họ một con dao nhỏ mang theo. Sau khi đọc kinh rất sốt sáng ông lại nảy ý định muốn đi tới Betphage và ông đi liền. Tại đó ông mới nhớ ra rằng khi ở trên núi cây dầu, ông đã quên không nhìn kỹ dấu chân Chúa hướng về phía nào, nên ông trở lại coi. Lần này, hình như ông cho lính gác cái kéo để họ cho vào.

48. Ở tu viện người ta khám phá ông đi một mình, các tu sĩ lo lắng sai người đi tìm. Đang khi từ trên núi cây dầu xuống, ông gặp một người thắt đai giúp việc tại tu viện. Ông này cầm một cây gậy to tướng với vẻ mặt hung dữ như muốn đánh. Tới gần I-Nhã, ông ta tóm lấy, nắm chặt lấy tay kéo theo. I-Nhã không chống cự nhưng người này vẫn cứ nắm chặt và kéo. Trong khi đi như thế về tới tu viện, I-Nhã được thấy Chúa liên miên như từ trên cao và lòng cảm thấy tràn đầy hạnh phúc.

Tiếp theo: Chương 5 - Đường Trở Về 1523-1524

Trở về Nội Dung