19. Tại Manrêsa, mỗi ngày I-Nhã đi ăn xin, không ăn thịt và
uống rượu dù người ta vẫn cho. Vào ngày chủ nhật thì ông
không ăn Chay và uống chút rượu, nếu có ai cho. Vì trước
kia, ông
thường chăm sóc mái tóc rất cẩn thận theo thời
trang, nay I-Nhã quyết định để tóc mọc lên tự nhiên, không
cắt không chải và cũng không thay đổi gì ngày cũng như đêm.
Về móng tay và móng chân cũng vậy, vì trước kia đã săn sóc
kỹ lưỡng, nên bây giờ không cắt và không ngó ngàng tới nữa.
Tại nhà thương
thí, nơi ông trọ, đã nhiều lần giữa ban ngày I-Nhã thấy ở
gần mình, trên không trung một hình bóng hết sức hấp dẫn làm
cho ông rất phấn khởi. Ông không thấy rõ nó có hình dạng gì
nhưng có vẻ giống một con rắn với nhiều chấm lấp lánh như là
những mắt của nó, dù đó không phải là mắt. Thấy hình dạng
này I-Nhã rất lấy làm thích thú và phấn chấn, càng thấy
nhiều thì lại càng cảm khích nhưng lúc nó biến mất thì lại
thấy buồn chán.
20. Trước kia chưa có kinh nghiệm về đời sống thiêng liêng
nội tâm, I-Nhã vẫn bình an và luôn luôn vui vẻ. Trong những
ngày ông thấy hình bóng kia thì hình như một thời gian trước
khi nó bắt đầu, I-Nhã bị dày vò mãnh liệt vì một tư tưởng
nảy sinh trong tâm hồn. Người thấy cả cuộc đời mình cực khổ
và hình như có ai nói trong thâm tâm: 'Làm sao anh có thể
chịu đựng một cuộc đời cực khổ như thế này suốt 70 năm còn
lại trong đời anh?' Tuy nhiên, hiểu rằng đó là tiếng nói thù
địch, I-Nhã rất cương quyết trả lời trong thâm tâm: 'Đồ khốn
nạn, mày làm gì bảo đảm tao sống được thêm một tiếng đồng hồ
nữa?'
Thế là
ông thoát được cơn thử thách và tìm lại được bình an. Đó là
lần đầu tiên ông gặp thử thách sau khi thay đổi cuộc sống.
Chuyện này xảy ra trong khi đang vào nhà thờ nơi ông đi dự
lễ hát, giờ kinh chiều và kinh tối cử hành trọng thể, ông đã
tham dự sốt sắng và rất lấy làm phấn khởi. Khi đi xem lễ
hằng ngày, ông thường đọc gẫm bài Thương Khó và được an vui
trong lòng.
21. Tuy nhiên sau cuộc thử thách kể trên, I Nhã bắt đầu cảm
nghiệm sự thay đổi trong tâm hồn, có khi cảm thấy khô khan,
không còn thấy thích dự lễ hay đọc kinh nữa. Đôi khi bất
thình lình ông cảm thấy ngược lại và có cảm tưởng là sự khô
khan và buồn phiền được cất đi như khi người ta cởi áo
choàng ra. Thấy sự thay đổi đó, mà từ xưa đến giờ chưa bao
giờ xảy đến, I-Nhã tự hỏi: 'Cuộc đời mới này làm sao đây?'
Hồi đó,
tại Manrêsa có một bà rất già về số tuổi cũng như về số năm
phục vụ Chúa. Khắp cả Tây Ban Nha ai cũng biết tiếng, cả vua
công giáo (danh hiệu là hoàng đế Carlos V) đã từng mời vào
yết kiến. Một hôm đang đàm dạo với lính mới của Chúa, bà nói
với ông: 'Ước gì một ngày nào, Chúa tôi, Đức Giêsu Kitô sẽ
hiện ra cho chú!' Hiểu câu nói theo nghĩa đen, I-Nhã kinh
ngạc trả lời: 'Lẽ nào Đức Kitô lại hiện ra cho cháu?' Cứ một
tuần I-Nhã xưng tội và rước Mình Thánh Chúa một lần.
22. Tuy nhiên trong đời sống thiêng liêng, I-Nhã đã phải khổ
sở rất nhiều vì lòng bối rối. Mặc dù tại Monserrate đã xưng
tội phạm suốt đời rất cẩn thận sau khi viết tất cả trên giấy
như đã kể trên. Đôi khi I-Nhã vẫn cảm thấy đã quên không
xưng vài tội, do đó ông rất khổ tâm. Mặc dù xưng tội lại lần
nữa, vẫn chưa thấy hài lòng. Ông đi tìm vài người đạo đức có
thể giúp ông chữa trị tâm trạng bối rối nhưng không có cách
nào thoát khỏi. Cuối cùng một linh mục giáo sư hay giảng tại
nhà thờ chính toà, và là một người đạo đức đã bảo ông trong
toà giải tội là cứ viết ra tất cả những gì nhớ được. I-Nhã
đã làm như vậy, nhưng sau khi xưng tội rồi thì cơn bối rối
lại còn phức tạp hơn nữa, khiến ông phải rất khổ sở.
Mặc dù ý
thức lòng bối rối gây hại cho mình, và nên vượt qua tình
trạng đó, ông cũng không làm sao thoát khỏi. Đôi khi ông
nghĩ cách chữa trị là nhờ Cha linh hướng nhân danh Chúa Kitô
ra lệnh đừng xưng lại tội cũ nữa, nhưng lại không dám đề
nghị với Cha linh hướng như thế.
23. Tuy nhiên, mặc dù không đề nghị, Cha linh hướng ra lệnh
đừng xưng lại các tội cũ nữa, trừ khi nhớ tội nào rõ ràng.
Nhưng đối với ông tội nào cũng nhớ rõ ràng lắm, cho nên lệnh
đó hoàn toàn vô hiệu quả và ông vẫn cảm thấy khổ sở.
Hồi đó
I-Nhã ở trong một phòng nhỏ mà các Cha Đa-Minh đã dành cho
ông trong tu viện, mỗi ngày ông quì gối cầu nguyện suốt bảy
tiếng đồng hồ, nửa đêm thức dậy và tiếp tục tất cả các việc
đạo đức trình bày trên. Tuy nhiên, những việc đó không giải
quyết được lòng bối rối đã gây khổ sở cho ông trong nhiều
tháng.
Một hôm
quá khổ tâm đang khi cầu nguyện sốt sắng, I-Nhã rên rỉ lớn
tiếng cầu cùng Thiên Chúa: 'Lạy Chúa, xin Chúa cứu thoát con
vì con không tìm thấy giải pháp nhờ loài người hay bất cứ
cái gì khác. Nếu hy vọng tìm được, con sẵn sàng chịu mọi cực
khổ không tiếc. Xin Chúa chỉ cho con tìm ra giải pháp, dù
phải chạy theo một con chó con để nó giúp con tìm thấy, con
cũng sẵn sàng chạy!'
24. Khi bận tâm với những tư tưởng đó, nhiều lần I-Nhã bị
cám dỗ kịch liệt muốn tự tử bằng cách lao mình xuống vực
thẳm qua một lỗ lớn trên tường phòng ở gần nơi ông quỳ gối
cầu nguyện. Nhưng biết việc tự tử là tội, ông lại kêu lớn
tiếng rằng: 'Lạy Chúa, con không muốn làm điều gì mất lòng
Chúa.' Rất nhiều lần ông lặp lại câu đó, cũng như những lời
nói trước. Một hôm, ông nhớ lại một vị Thánh rất ao ước được
Chúa ban cho một ân huệ nào đó, thì đã nhịn ăn nhiều ngày
cho đến khi được ơn ấy. Sau khi đã suy nghĩ một lúc lâu, ông
đã quyết định làm như vậy cho tới khi Chúa giúp ông, hoặc
đến khi sắp chết đói, ông sẽ xin bánh mì ăn.
25. Đó là vào một ngày Chúa Nhật sau khi rước Mình Thánh
Chúa. Suốt cả tuần, ông giữ ý định không ăn uống gì hết mà
vẫn tiếp tục cầu nguyện như thường, dự các lễ nghi ở nhà
thờ, quì gối cầu nguyện và thức dậy lúc nửa đêm. Vào Chúa
Nhật sau là ngày xưng tội, vì có thói quen kể cho Cha linh
hướng nghe chi tiết các việc ông làm, ông có trình bày vụ
nhịn ăn cả tuần qua, Cha linh hướng ra lệnh cho ông chấm dứt
vụ nhịn ăn. Mặc dù thấy khoẻ mạnh, I-Nhã cũng vâng theo.
Ngày hôm đó cũng như ngày hôm sau thấy thoát khỏi cảnh bối
rối. Nhưng ngày kế tiếp, tức ngày thứ Ba đang khi cầu
nguyện, lại nhớ đến từng tội cũ, từ tội này đến tội khác,
như khi xâu vật gì vào dây, và cảm thấy phải xưng tội đó lại
một lần nữa. Sau những tư tưởng đó, lại cảm thấy chán ngấy
đời sống khắc khổ và ao ước dứt khoát bỏ cuộc luôn.
Nhưng lúc
đó, Chúa thương giúp ông tỉnh trí khỏi ác mộng. Nhờ Chúa đã
dậy vài bài học và cho thu lượm kinh nghiệm về cách thức
nhận định các thần loại khác nhau, I-Nhã bắt đầu phân tích
các tư tưởng vừa qua từ đâu mà đến, và cuối cùng dứt khoát
không còn xưng tội cũ nữa. Từ ngày hôm đó, I-Nhã thoát được
cơn bối rối và xác tín rằng chính lòng thương xót của Chúa
đã cứu thoát ông.
26. Ngoài việc cầu nguyện suốt bảy tiếng đồng hồ mỗi ngày,
I-Nhã dùng thời giờ để giúp đỡ những người ông đến thăm để
nói chuyện về đời sống thiêng liêng. Thời giờ còn lại trong
ngày, ông nghĩ đến Thiên Chúa và nhớ lại những điều đã đã
suy gẫm hoặc đọc trong sách.
Khi sắp
sửa đi nghỉ, nhiều lần ông khám phá ra những điều mới lạ, có
những an vui thiêng liêng, thành ra hay mất những giờ ngủ đã
quá ngắn ngủi rồi! Đôi khi suy nghĩ về việc trên, ông thấy
đã dùng những giờ nhất định để kết hợp với Thiên Chúa rồi,
lại còn nhiều giờ khác trong ngày nữa. Do đó, ông nghi ngờ
các tư tưởng thiêng liêng trên không bắt nguồn từ một thần
tốt và kết luận không nên để ý tới nó nữa, nhưng tốt hơn là
ngủ theo những giờ giấc đã quyết định. I-Nhã vẫn kiêng thịt
và quyết định không ăn thịt vì bất cứ lý do nào. Nhưng một
buổi sáng, khi mới thức dậy ông thấy rõ ràng trước mắt ông
một miếng thịt, mặc dù trước đó không hề nghĩ đến thịt, đồng
thời ông ý thức từ nay sẽ sẵn sàng ăn thịt trở lại.
27. Mặc dù nhớ rõ sự cam kết dứt khoát kiêng thịt, lần này
không thể nghi ngờ phải quyết định ăn thịt trở lại. Sau đó
trình bày vấn đề trên cho Cha linh hướng, thì Cha bảo nên
xét xem ý định đó có phải là do ma quỉ cám dỗ chăng. Và sau
khi phân tích ý định rõ ràng, I-Nhã thấy rõ, không thể nào
nghi ngờ quyết định điều đó là phải.
Hồi đó
Chúa đối sử với I-Nhã như thày giáo dạy học trò. Có lẽ vì
I-Nhã còn chậm hiểu thô độn, hoặc vì không có ai hướng dẫn,
hoặc vì chính Chúa đã ban cho ông ý muốn phụng sự Thiên
Chúa. Ông tin tưởng và không nghi ngời chính Chúa muốn đối
xử với ông như vậy. Và nếu nghi ngờ điều đó, ông cho là xúc
phạm đến Thiên Chúa cao cả. Điều đó có thể thấy được qua năm
bằng chứng sau đây:
28. Thứ Nhất: Ông rất sùng kính Ba Ngôi Chí Thánh. Mỗi lần
I-Nhã cầu nguyện từng ngôi, nhưng vì cũng cầu nguyện cả Ba
Ngôi cùng một lúc, nên ông hay tự hỏi Thiên Chúa có Ba Ngôi,
sao lại cầu nguyện tới bốn lần? Tuy nhiên, vì cho đó là một
thắc mắc không đáng kể, nên ông ít bận tâm đến.
Một hôm
đang đứng trên bậc thang nhà thờ Thánh Đa Minh đọc giờ kinh
Đức Mẹ, trí tuệ của ông được nâng cao hầu như nhìn thấy Ba
Ngôi thiên Chúa Chí Thánh dưới hình thức ba phím đàn, khiến
ông rớt nước mắt đến độ không còn cử động nổi. Sáng hôm đó
ông theo đám rước kiệu từ trong nhà thờ đi ra, và suốt buổi
sáng đến giờ cơm, ông không thể nói chuyện về đề tài nào
khác trừ Ba Ngôi Chí Thánh, bằng nhiều ví dụ và câu ví khác
nhau, lòng tràn ngập hạnh phúc và an vui. Từ đó đến suốt
đời, mỗi lần cầu nguyện cùng Ba Ngôi Chí Thánh, ông cảm thấy
phấn khởi và hết lòng sùng kính.
29. Thứ Hai: Một hôm hiện ra trong trí I-Nhã về cách thức
Chúa đã tạo tác nên muôn vật, khiến ông cảm thấy sung sướng
tâm hồn. Ông có cảm tưởng nhìn ra một vật trắng, từ đó có
những tia sáng tỏa ra, như Thiên Chúa dùng vật đó để tạo
thành ánh sáng. Tuy nhiên ông cũng không biết cách giải
thích những điều đó, và không nhớ rõ được những hiểu biết
thiêng liêng mà Thiên Chúa đã in vào tâm hồn ông.
Thứ Ba:
Sau khi ở lại Manrêsa chừng độ một năm, được Thiên Chúa nâng
đỡ và hướng dẫn một số linh hồn có kết quả khả quan, I-Nhã
lại bỏ bớt những hình thức khắc khổ quá mức, rồi cắt móng
tay, móng chân và cắt tóc trở lại.
Một hôm
đang khi xem lễ ở một nhà thờ trong tu viện (vẫn ở Manrêsa)
vào lúc linh mục nâng Mình Thánh Chúa lên, ông thấy bằng mắt
tâm hồn vài tia sáng từ trên cao xuống. Trong nhiều năm, ông
vẫn không giải thích được hiện tượng đó, tuy nhiên những gì
ông thấy rõ bằng trí tuệ, đó là cách thức Chúa Kitô, Chúa
chúng ta hiện diện trong bí tích chí thánh.
Thứ Tư:
Nhiều lần đang khi cầu nguyện, mỗi lần trong một lúc khá
lâu, I-Nhã đã thấy bằng mắt tâm hồn, nhân tính của Chúa
Kitô. Đó là hình ảnh một thân thể trắng tinh, vóc dáng trung
bình không phân biệt rõ chân tay. Tại Manrêsa, ông đã thấy
hình ảnh đó rất nhiều lần, nếu nói là hai mươi lần đến bốn
mươi lần, thì không dám cho là sự thật. Ông đã thấy hình đó
một lần nữa tại Giêrusalem và một lần khác nữa trên đường đi
tới Pađôva. Ông còn thấy Đức Mẹ dưới hình thức tương tự
không phân biệt rõ chân tay.
Tất cả
những điều ông thấy đã củng cố đức tin của ông đến độ ông
nghĩ bụng: Mặc dù không có Thánh kinh dạy những chân lý ấy
và chỉ dựa trên hình ảnh ông đã thấy, ông vẫn sẵn sàng từ bỏ
mạng sống để bênh vực các chân lý đó.
30. Thứ Năm: Một hôm ông đi đến một nhà thờ, cách Manrêsa
chừng một dặm để cầu nguyện. Trên con đường song song với
một con sông, hình như đó là nhà thờ Thánh Phaolô, ông vừa
đi vừa đọc kinh, rồi lại ngồi xuống, mắt hướng về con sông
chảy dưới thung lũng.
Đang khi
ngồi tại đó, mắt tâm hồn ông dần dần mở ra. Mặc dù không
thấy hình ảnh nào, ông đã am tường nhiều điều, vừa thuộc đức
tin vừa văn hoá, dưới một luồng sáng rực rỡ khiến mọi điều
trở nên mới mẻ. Không thể trình bày chi tiết những điều ông
đã lĩnh hội được lúc đó, mặc dù rất nhiều, chỉ biết rằng ông
đã hiểu những điều đó hết sức rõ ràng. Nếu tính chung, tất
cả những điều Chúa đã ban và những điều ông đã học hỏi suốt
cả cuộc đời, tức là 62 năm qua, ông cảm thấy nó không bằng
những điều ông đã lĩnh hội trong lúc đó.
31. Sau khi hiện tượng trên kéo dài được một lúc lâu, I-Nhã
quì gối trước một thập giá gần đó để cảm tạ Thiên Chúa. Lúc
đó ông lại nhìn thấy hình bóng mà ông đã thấy nhiều lần
trước mà chưa hiểu rõ, tức là hình bóng có vẻ rất đẹp và có
nhiều mắt. Nhưng lần này đang lúc quì gối trước thập giá,
ông thấy rõ ràng hình bóng đó không có nhiều màu sắc đẹp đẽ
như những lần trước, và hiểu biết hết sức rõ rệt, cũng như
xác tín cương quyết đó là ma quỉ. Sau đó nhiều lần hình trên
lại hiện ra trong một lúc lâu, nhưng I-Nhã khinh chê và xua
đuổi nó bằng cây gậy mà ông thường cầm nơi tay.
32. Một hôm tại Manrêsa I-Nhã bị sốt nặng tưởng sắp chết.
Ông có cảm tưởng rõ rệt linh hồn sắp lìa khỏi xác. Lúc đó
một tư tưởng hiện ra trong đầu óc rằng, ông là người công
chính. Ông cảm thấy rất đau buồn và chỉ lo chống lại tư
tưởng đó. Nhưng mặc dù cố gắng hết sức, ông không tài nào
đánh bại được nó. Khi cơn sốt đã bớt phần nào và không còn
nguy hiểm nữa, ông bắt đầu kêu lớn tiếng cho một số các bà
thường đến thăm ông, và ông yêu cầu họ vì tình thương của
Thiên Chúa, lần sau khi thấy ông sắp chết, xin các bà kêu
lớn tiếng bên tai ông: “Đồ đầy tội lỗi!” để giúp ông nhớ lại
các tội lỗi đã phạm đến Chúa.
33. Vào một dịp khác, đang đi tàu biển từ Valencia tới
Italia, một cơn bão nổi lên, bánh lái tàu bị gãy. Theo I-Nhã
cũng như nhiều người khác trên tàu, nếu không có phép lạ thì
không thể nào thoát chết được. Trong khi đang xét mình ăn
năn tội và dọn mình chết, I-Nhã không quá sợ sệt tội lỗi
mình và không sợ mất linh hồn, nhưng ông cảm thấy xấu hổ và
đau buồn vì xét thấy đã không xử dụng đúng cách những ân huệ
mà Thiên Chúa đã ban cho.
Một lần khác nữa, hồi năm 1550 I-Nhã cũng đau rất nặng, theo
ý ông, cũng như nhiều người khác thì khó thoát chết. Lần đó
nghĩ mình sắp chết, I-Nhã vui mừng đến độ chảy nước mắt dòng
dòng trong một lúc lâu, có khi lại phải thôi không dám nghĩ
đến sự chết nữa, để bớt phấn khởi quá mức như thế.
34. Vào đầu mùa đông I-Nhã bị bệnh nặng, nhà chức trách địa
phương chở ông vào nhà thân sinh của một ông tên là Ferrere
và họ săn sóc rất chu đáo. Nhiều bà có địa vị đến gác đêm vì
kính phục ông. Dù khỏi bệnh, nhưng ông vẫn còn rất yếu và
hay đau dạ dày. Vì thế, cũng như vì mùa đông năm ấy lạnh
lắm, người ta cho ông áo ấm, giầy và nón. Vậy ông lấy hai
cái áo ấm, tấm vải thô và một cái nón trùm đầu cũng làm bằng
thứ vải đó. Thời đó, từ lâu ông ao ước được gặp những người
đạo đức để trao đổi về những vấn đề thiêng liêng. Nhưng rồi
sắp đến ngày I-Nhã lên đường đi Giêrusalem.
35. Vào đầu năm 1523, ông lên đường đi tới Barcelôna để lên
tàu. Mặc dù một số người đã tình nguyện đi với ông cho có
bạn, nhưng ông quyết định đi một mình. Một hôm có vài người
nài ép ông nhận làm bạn đi đường, vì ông không biết tiếng Ý
và cũng không biết tiếng La-Tinh nữa. Họ cố thuyết phục ông
để thấy có lợi như thế nào và có thể giúp đỡ ông ra sao. Ông
trả lời, dù ngay cả con của công tước Carđôna xin đi theo,
ông cũng không chấp nhận. Vì ông muốn thử tập ba nhân đức:
tức là đức mến, đức tin và đức cậy. Nếu đem theo một người
bạn, khi đói sẽ nhờ người đó giúp đỡ, lúc ngã sẽ nhờ người
đó nâng lên, và như thế, ông sẽ tin cậy và thương mến người
đó. Trong khi ông chỉ muốn tin cậy và yêu mến vào một mình
Chúa mà thôi. Những điều này, I-Nhã không chỉ nói ra miệng,
nhưng còn xác tín trong lòng nữa.
Với những
tư tưởng đó, ông có ý định không những đi một mình mà còn
không đem theo lương thực nữa. Ông điều đình với ông chủ
thuyền và được chủ thuyền cho lên tàu không mất tiền, vì
thấy I-Nhã không có tiền, nhưng với điều kiện là phải mang
theo một số lượng bánh khô đủ sống, nếu không thì ông chủ
thuyền nhất định không cho lên tàu.
36. Đang khi đi xin bánh, I-Nhã lại cảm thấy bối rối và tự
trách mình rằng: “Thế mới tin Chúa hay sao? Thế mới là trông
cậy Chúa không bỏ rơi anh sao?” Câu tự trách đó thấm thía
khiến ông cảm thấy rất khổ sở. Sau cùng không biết phải
quyết định ra sao vì thấy bên nào cũng hợp ý, ông quyết định
xin ý kiến của Cha linh hướng. Vậy ông trình bày lòng ao ước
sống trọn lành, bằng cách làm mọi việc hầu danh Chúa được cả
sáng, cũng như những lý lẽ khiến ông phải do dự, và xin Cha
cho biết có nên đem theo lương thực hay không. Cha linh
hướng khuyên cứ đem theo lương thực.
Khi đang
xin một người phụ nữ, thì bà này hỏi ông sắp sửa lên tàu đi
đâu. Ông do dự một lúc trước khi trả lời rồi không dám nói
sự thật, ông chỉ nói sắp đi Italia và Roma. Nghe vậy, với vẻ
mặt ái ngại bà này nói rằng: “Ông định đi Roma sao? Bao
nhiêu người đã đi Roma về mà cũng không biết ra làm sao
nữa.” I-Nhã không dám nói đi hành hương tới Giêrusalem vì sợ
bị hư danh. Đó cũng là lý do tại sao ông không bao giờ dám
nói với ai quê mình ở đâu và thuộc gia đình nào.
Kiếm được
đủ bánh rồi ông lên tàu. Tới bên bãi biển, thấy trong túi
còn năm, sáu đồng, ông móc ra bỏ trên một ghế đá gần bờ
biển.
37. Trước khi tàu nhổ neo, I-Nhã lưu lại Barcelôna trên hai
mươi ngày. Trong thời gian đó theo thói quen, ông tìm cách
liên lạc với các người đạo đức, dù họ sống ẩn dật xa thành
phố để trao đổi với họ. Tuy nhiên, tại Barcelôna cũng như
tại Manrêsa lúc trước, ông không tìm được người nào có thể
giúp đỡ ông như lòng ông mong ước. Trừ một người đàn bà tại
Manrêsa như đã được nhắc đến trước. Bà này đã nói với ông
rằng bà sẽ cầu xin Thiên Chúa cho Chúa Giêsu hiện ra cho
ông. Theo ý ông, bà đó đã tiến xa trong đời sống thiêng
liêng. Sau khi rời khỏi Barcelôna, ông không còn khao khát
tìm kiếm những người đạo đức nữa.